Điều hành và đầu tư tài chính dịch vụ đô thị cấp nước và
Transcription
Điều hành và đầu tư tài chính dịch vụ đô thị cấp nước và
Tài liệu của Trung tâm dự báo và nghiên cứu đô thị - PADDI Les Livrets du Centre de prospective et d’études urbaines - PADDI KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI (Từ 06 - 10/12/2010) ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT (06 - 10 Décembre 2010) Region SAØI GOØN TP HOÀ CHÍ MINH LỜI NÓI ĐẦU AVANT-PROPOS M L ục tiêu tổng quát của các khóa học là chuyển giao tri thức: các khóa học của PADDI nhằm bổ sung cho chương trình đào tạo công chức của Thành phố bằng cách hướng đến các khái niệm, kỹ thuật và phương pháp mới (toàn diện, đa ngành) trong quản lý đô thị, trong bối cảnh đặc thù của Thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp tổ chức khóa học được hình thành với sự phối hợp của các đối tác Việt Nam và được các đối tác phê duyệt. Ý tưởng chủ đạo là xem ở Pháp, người ta sử dụng phương pháp nào và giải quyết như thế nào những vấn đề tương tự mà giới chuyên môn Việt Nam đang gặp phải. Để thực hiện được ý tưởng này, nội dung của mỗi khóa học xoay quanh một nghiên cứu trường hợp rất cụ thể của Việt Nam. Các kiến thức tổng hợp từ khóa học có thể giúp hình thành những cách làm mới, chính sách mới và được phổ biến rộng rãi đến mọi người. Tài liệu này được xuất bản nhằm mục đích phổ biến rộng rãi những kiến thức tổng hợp được từ khóa học. ’objectif général des ateliers de formation est le transfert de savoirs : les sessions du PADDI doivent permettre de compléter la formation des fonctionnaires de la ville en les sensibilisant à des concepts, des techniques et des méthodes nouvelles (transversalité, pluridisciplinarité) en matière de gestion urbaine, dans le contexte propre à Hô Chi Minh Ville. La méthode proposée a été imaginée en collaboration avec les partenaires vietnamiens, puis validée par ces derniers. Il s’agit de voir quelles méthodes sont utilisées et quelles réponses sont apportées en France pour répondre à des problèmes similaires à ceux rencontrés par les professionnels vietnamiens au cours de leur activité. Pour ce faire, l’atelier sera organisé autour d’un cas d’étude vietnamien très concret. Une fois établies, ces connaissances devront pouvoir à la fois inspirer de nouvelles pratiques et de nouvelles politiques, et sensibiliser un public plus large grâce à une diffusion étendue. C’est dans cet objectif de large diffusion et de sensibilisation que les Livrets ont été créés. Ghi chú: PADDI và các chuyên gia không chịu trách nhiệm về ý kiến phát biểu của học viên trong khóa học. Các phát biểu này là ý kiến riêng của học viên. Ngày xuất bản / Date d'impression du livret : ... Số lượng in / Nombre d'exemplaires : ... In tại / Nom de l'imprimeur : ... Biên soạn / Rédaction : Jessie Joseph Biên dịch / Traduction : Huỳnh Hồng Đức Chỉnh sửa / Correction : Fanny Quertamp & Hoàng Kim Chi Xin chân thành cảm ơn / Avec nos remerciements à Mary Senkeomanivane & Lê Thị Huyền Trang pour leur relecture NB : Le PADDI, ainsi que les experts, n'entendent donner aucune approbation ni improbation aux propos émis et retranscrit dans ce livret. Ces propos doivent être considérés comme propres à leurs auteurs. 03 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT MỤC LỤC SOMMAIRE 03 LỜI NÓI ĐẦU 03 AVANT-PROPOS 08 DANH SÁCH HỌC VIÊN THAM GIA KHÓA TẬP HUẤN 09 LISTE DES PARTICIPANTS À L’ATELIER 12 LỜI GIỚI THIỆU 13 INTRODUCTION 14 PHẦN 1 - THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ ĐẦU TƯ TRONG LĨNH VỰC CẤP NƯỚC TẠI TPHCM ĐÒI HỎI PHẢI CÓ CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH MỚI: ĐIỀU HÀNH ĐA CHỦ THỂ 15 PARTIE 1 – ÉTAT DES LIEUX DE LA GESTION ET DES INVESTISSEMENTS DES SERVICES D’EAU POTABLE ET D’ASSAINISSEMENT À HCMV - LA NÉCESSITÉ D’UN NOUVEL OUTIL : LA GOUVERNANCE MULTI-ACTEURS I. Quản lý và đầu tư trong lĩnh vực cấp nước tại TPHCM (Bà Hoàng Thị Kim Chi, Viện Nghiên cứu Phát triển TPHCM, HIDS) 1. Giới thiệu tổng quan và định hướng phát triển tại TPHCM 2. Hiện trạng và định hướng phát trỉển mạng lưới cấp nước tại TPHCM 3. Các chủ thể kinh tế tham gia vào dịch vụ cấp nước tại TPHCM a) Chính sách và văn bản pháp lý b) Sáu hình thức đầu tư đang thực hiện (xem Quyết định số 141/2005/QĐ-UBND – 3.a) c) Đánh giá bước đầu về chính sách xã hội hóa dịch vụ cấp nước II. Quản trị đa chủ thể trong lĩnh vực cấp nước và xử lý nước thải tại các thành phố lớn ở các nước mới nổi - điều kiện triển khai thực hiện (Ông Miras, Viện Nghiên cứu Phát triển Pháp, IRD) 1. Hợp tác chặt chẽ giữa IRD và chương trình INDH (Sáng kiến quốc gia về phát triển con người) a) Tại sao và làm thế nào thiết lập mối quan hệ đối tác? b) Tiếp cận thực tế dưới góc nhìn của nhà nghiên cứu 2. Suy nghĩ về quản trị a) Quản trị đa chủ thể: định nghĩa b) Các chủ thể nào có liên quan đến công tác quản trị? c) Cách vận hành quản trị đa chủ thể d) Chi phí và chi phí tăng thêm của công tác điều phối e) Điều tiết quản trị đa chủ thể 04 I. Gestion et investissement dans le domaine de l’approvisionnement en eau à HCMV (Mme Kim Chi, HCMC Institute for Development Studies, HIDS) 1. Présentation générale et grandes orientations de développement de HCMV 2. Etat des lieux et orientations de développement du réseau d’approvisionnement en eau à HCMV 3. Participation des acteurs économiques au service d’approvisionnement en eau à HCMV a) Politique et textes juridiques b) Illustrations des six modèles d’investissement du privé dans des projets d’investissement1 c) Première évaluation de la politique de socialisation du service d’eau potable II. La gouvernance multi-acteurs de l’eau potable et de l’assainissement dans les grandes villes des pays émergents – Les conditions de mise en œuvre (M. de Miras, Institut de Recherche pour le Développement, IRD) 1. Une collaboration étroite entre l’IRD et le programme Initiative Nationale pour le Développement Humain - INDH a) Pourquoi et comment un tel partenariat ? b) Une approche pratique sous l’angle de la recherche 2. Réflexion sur la gouvernance a) La gouvernance multi-acteurs : définition b) La scène de la gouvernance : qui sont les acteurs concernés ? c) Le fonctionnement de la gouvernance multi-acteurs d) Les coûts et les surcoûts de coordination e) La régulation de la gouvernance multi-acteurs 05 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI 46 PHẦN 2- QUẢN LÝ DỊCH VỤ CẤP NƯỚC, THOÁT NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI: VÍ DỤ Ở CASABLANCA, MAROC VÀ HAI DỰ ÁN TẠI TPHCM I. Công ty Idmaj-Sakan, một doanh nghiệp chuyên về cải tạo các khu nhà lụp xụp ở Casablanca, Maroc (Ông Ifrassen, công ty Idmaj-Sokan) 1. Giới thiệu công ty Idmaj-Sakan và chương trình giải tỏa các khu nhà lụp xụp 2. Cách thức can thiệp a) Khôi phục và nâng cấp đô thị b) Tại định cư bằng nền đất, hai hộ một nền (tự xây dựng nhà ở) c) Tái định cư trong căn hộ 3. Tiến độ đến tháng 9 năm 2010 II. Công ty Lydec ở Maroc, quản lý dịch vụ cấp, thoát nước, xử lý nước thải, điện và hệ thống chiếu sáng công cộng (Ông Cluzeau, dự án INDH-INMAE và công ty Lydec) 1. Bối cảnh dự án INDH-INMAE 2. Dự án INDH-INMAE a) Quản lý b) Tổ chức c) Quản trị 3. Tình hình dự án đến ngày 30/6/2010 a) Yếu tố chủ chốt b) Các dịch vụ: đòn bẩy tiên quyết cho việc giữ dân ở lại khu vực cải tạo III. Một vài dự án xử lý nước thải tại TPHCM (Trung tâm điều hành chương trình chống ngập tại TPHCM) 1. Quy hoạch tổng thể hệ thống xử lý nước thải tại TPHCM 2.Trình bày một số dự án đã và sẽ triển khai trong tương lai 3. Một số khó khăn VI. Dự án giảm tỉ lệ thất thoát nước trong hệ thống cấp nước (Tổng công ty cấp nước Sài Gòn - SAWACO) 1. Giới thiệu tổng quan về Sawaco và mạng lưới phân phối nước sạch tại TPHCM 2. Dự án giảm thất thoát nước 3. Khó khăn khi công ty Manilia Water thực hiện dự án tại khu vực 1 104 PHẦN 3 – TỔNG HỢP, SUY NGHĨ VÀ KHUYẾN NGHỊ I. Tổng hợp II. Nhắc lại một số thuật ngữ và làm rõ các thách thức III. Khuyến nghị 06 ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT 47 PARTIE 2 – LA GESTION DES SERVICES D’EAU ET D’ASSAINISSEMENT : L’EXEMPLE DE CASABLANCA ET DE DEUX PROJETS À HCMV I. La société Idmaj-Sakan, une entité dédiée à la lutte contre l’habitat insalubre à Casablanca et au Maroc (M. Ifrassen, société Idmaj-Sakan) 1. Présentation de la société Idmaj-Sakan et du programme de résorption des bidonvilles 2. Modes d’intervention a) Restauration et mise à niveau urbaine b) Recasement dans des lots bi-familiaux (l’auto-construction) c) Relogement dans des appartements 3. Etat d’avancement en septembre 2010 II. La société Lydec au Maroc, gestionnaire des services d’eau, d’assainissement liquide, d’électricité et d’éclairage public (M. Cluzeau, projet INDH-INMAE et société Lydec) 1. Contexte du projet INDH-INMAE 2. Le projet INDH-INMAE a) Gestion b) Organisation c) Gouvernance 3. Situation du projet au 30 juin 2010 a) Facteur clés b) Les services : premier levier du développement des quartiers maintenus sur place III. Quelques projets de traitement des eaux usées à HCMV (Centre de gouvernance du programme anti-inondation de HCMV) 1. La planification générale du système de traitement des eaux usées à HCMV 2. Présentation de quelques projets mis en œuvre ou à venir 3. Difficultés rencontrées VI. Projet de réduction des fuites d’eau au sein du réseau d’eau potable (société SAWACO) 1. Présentation de Sawaco et du réseau de distribution d’eau potable à HCMV 2. Le projet de réduction des fuites d’eau 3. Difficultés rencontrées au sein du projet de la zone 1 assuré par Manilia Water 105 PARTIE 3 – SYNTHÈSE, ÉLÉMENTS DE RÉFLEXION ET RECOMMANDATIONS I. Synthèse II. Rappel de définitions, stabilisation du vocabulaire et clarification des enjeux III. Recommandations opérationnelles 07 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI DANH SÁCH THAM GIA KHÓA TẬP HUẤN ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT LISTE DES PARTICIPANTS À L’ATELIER Chuyên gia Pháp: Ông De Miras, Viện Nghiên cứu Phát triển IRD Ông Ifrassen, Giám đốc Công ty Idmaj-Sakan Ông Cluzeau, Giám đốc dự án INDH-INMAE Les experts français et marocains : M. de Miras, Institut de Recherche pour le Développement, IRD M. Ifrassen, Directeur, société Idmaj-Sakan M. Cluzeau, Directeur du projet INDH-INMAE Chuyên gia Việt Nam: Bà Kim Chi, Viện Nghiên cứu phát triển TPHCM L’expert vietnamien : Mme Kim Chi, HCMC Institute for Development Studies Phiên dịch: Ông Huỳnh Hồng Đức Traducteur : M. Huynh Hong Duc Ủy Ban Nhân Dân Quận 8 Đỗ Thùy Vân Nguyễn Hoàng Chương Viện Nghiên cứu Phát triển TP.HCM Trần Nhật Nguyên Phan Diệu Chi Hoàng Kim Oanh Nguyễn Thị Bích Hồng Nguyễn Thu Yên Vũ Ngọc Anh Phan Đình Phước Nguyễn Ngọc Nam Nguyễn Thị Cẩm Vân Nguyễn Thị Tường Vân Lê Chí Hùng Đào Thị Hồng Hoa Hoàng Thị Kim Chi Phan Nguyễn Thúy Nhung Sở Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Thị Tuyết Hoa Lê Mạnh Đệ Nguyễn Ngọc Nguyễn Sở Quy hoạch-Kiến trúc Phạm Hoài Trung Lê Tiến Liêm Huỳnh Văn Quốc Sở Xây dựng Đặng Văn Pho Trung tâm chống ngập TP.HCM Võ Văn Cần Lưu Văn Tấn Phạm Hồng Trung tâm nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn Ngô Mạnh Tường Tổng công ty Cấp nước Sài Gòn Vương Quang Sang Trần Cường Vũ Đức Thắng Công ty thoát nước đô thị TP.HCM Lê Thanh Phong Trần Quốc Vinh PADDI: Fanny Quertamp Nguyễn Hồng Vân Huỳnh Hồng Đức Jessie Joseph Trần Thị Thu Hiền Comité Populaire du District 8 Do Thuy Van Nguyen Hoang Chuong Dang Van Pho Institut de Recherche pour le développement de Hô Chi Minh-Ville Tran Nhat Nguyen Phan Dieu Chi Hoang Kim Oanh Nguyen Thi Bich Hong Nguyen Thu Yen Vu Ngoc Anh Phan Dinh Phuoc Nguyen Ngoc Nam Nguyen Thi Cam Van Nguyen Thi Tuong Van Le Chi Hung Dao Thi Hong Hoa Hoang Thi Kim Chi Phan Nguyen Thuy Nhung de la Vo Van Can Luu Van Tan Pham Hong Ngo Manh Tuong Société générale d’Approvisionnement en eau de Hô Chi Minh-Ville Vuong Quang Sang Tran Cuong Vu Duc Thang Nguyen Thi Tuyet Hoa Le Manh De Nguyen Ngoc Nguyen Département l’Architecture Centre de lutte anti-inondations de Hô Chi MinhVille Centre de gestion de l’eau et de l’assainissement des zones rurales Département des Ressources naturelles et de l’Environnement Pham Hoai Trung Le Tien Liem Huynh Van Quoc 08 Département de la Construction Société de drainage urbain de Hô Chi Minh-Ville Le Thanh Phong Tran Quoc Vinh PADDI : Planification et de Fanny Quertamp Nguyen Hong Van Huynh Hong Duc Jessie Joseph Tran Thi Thu Hien 09 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI KÝ HIỆU VÀ TỪ VIẾT TẮT 10 ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT SIGLES ET ABRÉVIATIONS IRD: Viện Ngiên cứu Phát triển B.L.T. :Build, Lease, Transfer INDH: Sáng kiến quốc gia vì sự phát triển con người B.O.O. : Build, Own, Operate B.L.T.:Build, Lease, Transfer B.O.O.S.T. : Build, Own, Operate, Subsidize, Transfer B.O.O.: Build, Own, Operate B.O.O.T. : Build, Own, Operate, Transfer B.O.O.S.T.: Build, Own, Operate, Subsidize, Transfer B.O.T. : Build, Operate, Transfer B.O.O.T.: Build, Own, Operate, Transfer B.T.O. : Build, Transfer, Operate B.O.T.: Build, Operate, Transfer D.B.F.O. : Design, Build, Finance and Operate B.T.O.: Build, Transfer, Operate DMA : District Meter Area D.B.F.O.: Design, Build, Finance and Operate DOC : Département de la Construction DMA: District Meter Area DONRE : Département des Ressources Naturelles et de l’Environnement DOC: Sở Xây dựng DTC: Département des Transports et des Communications DONRE: Sở Tài nguyên và Môi trường EVN : Electricité du Vietnam DTC: Sở Giao thông vận tải FASEP : Fonds d’Aide au Secteur Privé EVN: Điện lực Việt Nam HIDS : Institut de Recherche sur le Développement de Hô Chi Minh-Ville FASEP: Fonds d’Aide au Secteur Privé INDH : Initiative Nationale pour le Développement Humain HIDS: Viện Nghiên cứu và phát triển TPHCM IRD : Institut de Recherche pour le Développement MOC: Bộ Xây dựng MOC : Ministère de la Construction SEDP: Social Economic Development Plan SEDP : Social Economic Development Plan TLE: Taxe Locale d’Equipement TLE : Taxe Locale d’Equipement UDC: Urban Drain Company UDC : Urban Drain Company 11 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI INTRODUCTION GIỚI THIỆU T ại thời điểm tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc về các mục tiêu thiên niên kỷ, việc trao đổi kinh nghiệm tiếp cận rộng rãi các dịch vụ cơ bản là điều thật sự cần thiết. Nó cho phép chia sẻ, tổng hợp các cách làm mới được triển khai ở các đô thị đang phát triển mạnh mẽ và hướng đến phát triển đô thị và xã hội bền vững. Những kinh nghiệm này xuất phát từ các thành phố đang phát triển và tập trung vào các mảng: tài chính, theo dõi thực hiện, đánh giá liên tục kết quả đạt được, quản trị đa chủ thể và liên cơ quan. Những kinh nghiệm này cũng chính là điều kiện để huy động nguồn lực mới, giảm chi phí khai thác, chi phí phát sinh thêm bằng tổ chức điều phối tốt hơn các hoạt động. Không sao chép nguyên mẫu các mô hình, cách làm tốt ở nước ngoài, tuy nhiên các đặc điểm, mục tiêu ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT và tiềm năng của những cách làm này vốn phù hợp với đặc điểm xã hội và địa bàn ở các nước sở tại rất đáng để chúng ta nghiên cứu và so sánh nhằm tìm ra mô hình phát triển hài hòa hơn. Sự trao đổi này càng cần thiết hơn khi tình hình thế giới biến đổi ngày một nhanh chóng, đô thị tăng trưởng ngày càng mạnh mẽ. TPHCM và Casablanca là hai trung tâm kinh tế, là đô thị lớn nhất của hai quốc gia. Cả hai đều có tốc độ tăng trưởng nhanh và cần nâng cấp cũng như mở rộng một cách đồng bộ các mạng lưới hạ tầng kỹ thuật. Việc trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm giữa hai thành phố này là rất cần thiết. Kinh nghiệm ở Casablanca có thể giúp suy nghĩ nhiều hơn và xem xét các phương thức điều hành và đầu tư cho dịch vụ cấp, thoát nước ở TPHCM. A u moment où se tient le Sommet de l’ONU des Objectifs du millénaire (20-22 septembre 2010), les échanges d’expériences en matière d’accès étendu aux services essentiels, sont particulièrement nécessaires. Ils permettent de faire connaître et de capitaliser les pratiques innovantes développées dans des contextes urbains de métropolisation en croissance rapide et engagées dans la voie d’un développement urbain durable et socialement inclusif. Ce savoir-faire, inventé à partir de différents territoires urbains dans des contextes nationaux en émergence, porte sur les financements, le suivi des dispositifs opérationnels, l’évaluation continue des résultats, la gouvernance multi-acteurs et interinstitutionnelle. Ces facteurs sont autant de conditions de mobilisation de ressources nouvelles et de réduction des coûts d’exploitation et des surcoûts induits par une coordination et une synchronisation perfectibles. Sans prétendre transposer les « bonnes pratiques » extérieures, il est clair cependant que les objectifs, les régularités et les limites mais aussi les potentialités de ces dispositifs propres à chaque réalité sociétale 12 et territoriale, méritent d’être comparées en vue d’un développement humain harmonieux. Cette capitalisation d’expériences est d’autant plus nécessaire que les évolutions rapides des contextes mondiaux, les mutations urbaines fortes et l’urgence des besoins en eau et en assainissement peuvent être paradoxalement des obstacles à la mise en œuvre de pratiques innovantes du développement urbain. Hô Chi Minh Ville et Casablanca sont deux capitales économiques ; elles sont les plus grandes villes de chacun des deux pays. Toutes deux sont caractérisées par une dynamique de croissance importante qui nécessite une mise à niveau et une extension synchrone des réseaux. Il semble donc pertinent d’échanger et de partager les expériences autour de ces deux cas d’études. Si l’expérience est un peu plus avancée à Casablanca, elle permettra d’enrichir les réflexions et d’interroger les modes de faire en matière de gouvernance et de financement des services en eau et assainissement à HCMV. 13 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT PHẦN 1 – THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ ĐẦU TƯ TRONG LĨNH VỰC CẤP NƯỚC TẠI TPHCM ĐÒI HỎI PHẢI CÓ CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH MỚI: ĐIỀU HÀNH ĐA CHỦ THỂ PARTIE 1 – ÉTAT DES LIEUX DE LA GESTION ET DES INVESTISSEMENTS DES SERVICES D’EAU POTABLE ET D’ASSAINISSEMENT À HCMV LA NÉCESSITÉ D’UN NOUVEL OUTIL : LA GOUVERNANCE MULTI-ACTEURS Ông Nguyễn Trọng Hòa – Viện trưởng HIDS: TPHCM có gần 10 triệu dân. Trước năm 2000, vấn đề quản lý đô thị còn gặp nhiều khó khăn do năng lực của quận/huyện còn hạn chế. Từ năm 2000, năng lực của quận/huyện không ngừng được tăng lên. Các chuyên viên và cán bộ của quận/huyện, sở ngành của Thành phố được tham dự các khóa học của PADDI nhằm nâng cao kiến thức và cải thiện công tác quản lý đô thị. Các khóa đào tạo trong khuôn khổ chương trình PRUD (Chương trình nghiên cứu đô thị vì sự phát triển của Bộ ngoại giao Pháp) được thực hiện từ năm 1996 đến năm 2000 đã đáp ứng được nhu cầu phát triển. Đồ án điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng TPHCM đã được Thủ tướng phê duyệt vào đầu năm 2010. Quy hoạch này do Nikken Seikkei thực hiện và có sự gắn kết giữa tổ chức không gian với các mảng khác, ví dụ kinh tế. Thành phố đã xác định rõ ràng các trục phát triển (đây là một bước tiến so với các đồ án quy hoạch trước kia). Hiện nay, Thành phố đang tập trung triển khai thực hiện các chiến lược nêu trong quy hoạch này. Từ ngày 1 tháng 1 năm 2010, luật quy hoạch đô thị với cách tiếp cận hiện đại, bắt đầu có hiệu lực. Luật này tạo khuôn khổ pháp lý cho công tác phát triển đô thị tại TPHCM nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, trên địa bàn TPHCM, đôi khi vẫn có sự trộn lẫn giữa đô thị và nông thôn, giữa các tòa nhà cao 14 tầng với đô thị truyền thống. Các sở, ban, ngành phụ trách quản lý đô thị phải đương đầu với nhiều vấn đề: xây dựng công trình giao thông, hệ thống cấp, thoát nước… Cần xử lý rất nhiều mâu thuẫn và ở các cấp độ địa bàn khác nhau. Trong bối cảnh đó, chúng tôi mong nhận được sự giúp đỡ cũng như phương pháp tiếp cận khoa học của các bạn. Thông qua trao đổi và đối thoại, chúng ta có thể mở ra nhiều hướng suy nghĩ. I. Quản lý và đầu tư trong lĩnh vực cấp, thoát nước và xử lý nước thải tại TPHCM (Bà Hoàng Thị Kim Chi, Viện Nghiên cứu Phát triển, HIDS) 1. Giới thiệu tổng thể và định hướng phát triển của TPHCM TPHCM có tổng diện tích 2.095 km2, chia thành 24 quận/huyện, trong đó có 13 quận nội thành cũ, 6 quận mới và 5 huyện ngoại thành. Dân số trên toàn thành phố là 7,2 triệu người thường trú và 1,5 triệu người tạm trú. Mật độ dân số là 3.400 người/km2 được phân bố như sau: - Khu vực nội thành cũ: 26.600 người/km2 - Khu vực nội thành mới: 5.900 người/km2 - Khu vực ngoại thành: 800 người/km2 M. Hoa, Directeur HIDS : La ville d’HCM accueille près de dix millions d’habitants. Avant les années 2000, la ville connaissait de grandes difficultés en matière de gestion urbaine, notamment à cause des compétences limitées des districts. Depuis, les districts ont non seulement gagnés en compétences, mais les techniciens et cadres des services ont pu bénéficier des formations du PADDI et ainsi améliorer leurs connaissances. Par ailleurs, les formations qui se sont tenues dans le cadre du PRUD (Programme de Recherche Urbaine pour le Développement du Ministère des Affaires Etrangère français) entre 1996 et 2000, ont su répondre aux besoins de renforcement des capacités qu’appelle ce développement fulgurant. Le dernier schéma directeur de HCMV a été approuvé début 2010 par le Premier Ministre. Celui-ci a été élaboré avec le cabinet Nikken Seikkei et intègre à la planification des thématiques telles que l’économie. La ville a ainsi identifié des axes de développement, ce qui constitue un pas en avant par rapport aux précédents Schémas Directeurs. Il s’agit maintenant de se concentrer sur la mise en œuvre des stratégies énoncées par ce nouveau Schéma Directeur. Le premier janvier 2010 entrera en vigueur une loi sur l’urbanisme qui se caractérise par une approche moderne. Cette loi permet de mieux encadrer le développement urbain à HCMV et au Vietnam en général. Néanmoins, sur le territoire d’HCMV se côtoient et parfois se mélangent des zones urbaines et des zones rurales, de grandes tours et du tissu urbain traditionnel. Les autorités ainsi que les services techniques qui ont en charge la gestion urbaine sont confrontés à des problèmes très concrets que sont par exemple la réalisation de carrefours giratoires ou encore la mise en place et la maintenance de réseaux d’égouts. Il s’agit de gérer beaucoup de contradictions et de grands écarts d’échelle. Dans ce contexte, nous souhaitons bénéficier de votre aide, de vos approches scientifiques, afin de renforcer les échanges et le dialogue entre les participants de l’atelier. A travers ces échanges, nous pourrons ainsi explorer plusieurs pistes de réflexions. I. Gestion et investissement dans le domaine de l’approvisionnement en eau et de l’assainissement à HCMV (Mme Kin Chi, HCMC Institute for Development Studies, HIDS) 1. Présentation générale et grandes orientations de développement à HCMV HCMV recouvre une superficie de 2 095km2 qui regroupe 24 districts dont treize districts centraux, six districts périphériques et cinq districts ruraux. Sa population est de 7,2 millions de résidents permanents et de 1,5 million résidents provisoires pour une densité de 3 400 habitants/km2 qui se répartit comme suit, selon le type de district : - districts centraux : 26 600 habitants/km2, - districts périphériques : 5 900 habitants/km2, - districts ruraux : 800 habitants/km2. 15 16 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Mật độ dân số tại TPHCM Densité démographique de HCMV 17 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Dân số dự kiến đến 2025 là 10 triệu người thường trú và 2,5 triệu người tạm trú. Thành phố phát triển theo các trục chính sau: Les prévisions pour 2025 estiment à 10 millions la population de résidents permanents et à 2,5 millions celle des résidents provisoires. Le développement urbain s’oriente selon plusieurs éléments structurants : - Hai hướng chính: - deux axes principaux : - Thành phố đa trung tâm: trung tâm lịch sử (các quận trung tâm hiện nay) và trung tâm khác tại bốn hướng - une ville polycentrique : centre historique (les districts centraux actuels) et les centres secondaires au sein • Đông và Nam (hướng ra biển) và hai hướng phụ: Tây – Bắc, • Tây, Tây-Nam; phát triển. • Est et Sud (vers la mer) et deux axes secondaires : Nord – Ouest, • Ouest, Sud-Ouest ; des quatre axes de développement. Zone urbaine Nord-Ouest Zone centrale Zone urbaine Nord-Est Zone urbaine du port Hiep Phuoc 18 Zone centrale 19 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI 2. Thực trạng và định hướng phát triển mạng lưới cấp nước tại TPHCM Thực trạng: - 100% dân số nội thành và 90% dân số ngoại thành 2. État des lieux et orientations de développement du réseau d’approvisionnement en eau à HCMV - Tiêu chuẩn bình quân 200 lít/người/ngày ở khu État des lieux : được cấp nước, Hệ thống cấp nước tại TPHCM do Sawaco quản lý. Mạng lưới cấp nước có các đặc điểm sau: m 3/ • Tổng công suất lắp đặt năm 2009: 1.350.000 ngày, • Sản lượng nước bình quân: 1.301.370 m3/ngày, • Tổng lượng nước tiêu thụ bình quân: 765.644 m3/ ngày, • Tổng lượng nước thất thoát: 535.726 m3/ ngày, • Tỷ lệ thất thoát: 41%. Hệ thống cấp nước do Trung tâm nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn (thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) quản lý, chủ yếu cấp cho các quận ven và huyện ngoại thành. Đặc trưng của mạng lưới: • Tổng lượng nước sản xuất 2009: 49.000 m3/ngày, • Tổng lượng nước tiêu thụ 2009: 37.100 m3/ngày, • Tỷ lệ thất thoát: 24%. Tỷ lệ cấp nước từ hai nguồn nói trên cho các đối tượng như sau: • Sinh hoạt: 69%, • Hành chính, sự nghiệp: 9%, • Sản xuất công nghiệp: 7%, • Kinh doanh, dịch vụ: 15%. Tỷ lệ hộ dân được cấp nước tính chung toàn Thành phố là 60%, trong đó: khu vực nội thành cũ là 84%, nội thành mới là 43%, ngoại thành là 23%. Lượng nước cấp bình quân đầu người tính chung toàn Thành phố là 112 lít/người/ngày (trong đó nước sinh họat 79 lít/người/ngày). - Khu vực nội thành cũ: 145 lít/người/ngày (trong đó nước sinh hoạt là 106 lít/người/ngày) - Khu vực nội thành mới: 103 lít/người/ngày (trong đó nước sinh hoạt là 63 lít/người/ngày) - Khu vực ngoại thành: 26 lít/người/ngày (trong đó nước sinh hoạt là 23 lít/người/ngày) Ở TPHCM, việc tiếp cận mạng lưới cấp nước vẫn còn hạn chế. Định hướng phát triển: Về cấp nước, các mục tiêu chính của quốc gia đến 20 năm 2025 được xác định trong Quy hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội. Nội dung như sau: ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT vực nội thành và 120 lít/người/ngày ở ngoại thành, - Giảm tỷ lệ thất thoát nước xuống còn 25%. Để đáp ứng nhu cầu, TPHCM phải tăng khả năng cấp nước. Tổng công suất cấp nước phải đạt: 2.428.000 m3/ngày vào năm 2015, 2.905.000 m3/ngày vào năm 2020, 3.508.000 m3/ngày vào năm 2025. Điều này đòi hỏi cần có vốn đầu tư lớn: 8.500 tỷ đồng cho giai đoạn từ năm 2010 đến 2015 và 11.000 tỷ đồng cho giai đoạn từ 2015 đến 2025 cần huy động để thực hiện các chính sách về nước. Để thực hiện điều này, Thành phố chủ trương mời gọi khu vực tư nhân tham gia. 3. Sự tham gia của các thành phần kinh tế trong dịch vụ cấp nước ở TP.HCM a) Chính sách và văn bản pháp lý: Le réseau d’eau potable de HCMV est géré par la Société Générale des eaux de la Ville : Sawaco. Le réseau se caractérise par : • une capacité totale en 2009 de 1 350 000 m3/jour, • une production moyenne de 1 301 370 m3/jour, • une consommation moyenne de 765 644 m3/jour, • des pertes de 535 726 m3/jour, • un taux de pertes : 41 %. Le Centre d’approvisionnement en eaux (dépendant du Département de l’Agriculture et du développement rural) gère le réseau d’approvisionnement en eau pour les districts périphériques et les districts ruraux. Ce réseau se caractérise par : • une production en 2009 de 49 000 m3/jour, • un volume d’eau consommée de 37 100 m3/jour, • un taux de perte de 24 %. Quy chế xã hội hóa dịch vụ cấp nước sạch (ban hành theo Quyết định 141/2005/QĐ-UBND) quy định sáu hình thức tham gia: La répartition des secteurs de consommation d’eau approvisionnés par Sawaco et le Centre des eaux se fait de la façon suivante : 1) Đầu tư sản xuất nước, tổ chức các họat động kinh doanh hoặc bán sỉ nước sạch cho Sawaco qua đồng hồ tổng tại khu vực chưa có hệ thống cấp nước • usage domestique : 69 %, • usage dans les bâtiments publics : 9 %, • usage industriel : 7 %, • usage pour le commerce et les services : 15 %, 2) Đầu tư sản xuất nước, bán sỉ nước sạch cho Sawaco qua đồng hồ tổng tại khu vực đã có hệ thống cấp nước. Le taux des foyers ayant accès à l’eau sur l’ensemble de la ville est de 60 %. Dans les districts centraux ce taux atteint 84 % alors qu’il n’est que de 43 % dans les districts périphériques et de 23 % dans les districts ruraux. Le volume moyen d’eau distribuée par habitant sur l’ensemble du territoire est de 112 litres/pers./jour (dont 79 litres/pers/jour pour des usages domestiques). 3) Đầu tư cải thiện một phần hoặc toàn bộ hệ thống cấp nước để giảm tỷ lệ thất thoát nước. 4) Hợp đồng với Sawaco để vận chuyển nước sạch đến các khu vực không có nước. Loại hình vận chuyển: xe bồn nước hoặc ghe. 5) Hợp đồng với Sawaco để đầu tư vốn áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới nhằm cải tạo, nâng công suất, tăng sản lượng nước sạch của nhà máy nước. 6) Hợp đồng mua sỉ nước sạch qua đồng hồ tổng với Sawaco và tự tổ chức hoạt động kinh doanh. - districts centraux : 145 litres/personne/jour (dont 106 litres/pers./jour pour des usages domestiques) ; - districts périphériques : 103 litres/pers./jour (dont 63 litres/pers /jour pour des usages domestiques) ; - districts ruraux : 26 litres/pers./jour (dont 23 litres/ pers./jour pour des usages domestiques). L’accès à l’eau reste limité à HCMV. Orientations de développement : En termes d’approvisionnement en eau, les objectifs principaux au niveau national à l’horizon 2025 sont fixés par le Social Economic Development Plan (SEDP) au niveau national. Ils se présentent comme suit : - l’accès à l’eau courante pour 100 % des personnes vivant en milieu urbain et 90 % des personnes vivant en milieu rural ; - une capacité de fourniture de 200 litres/personne/ jour pour le secteur urbain et 120 litres/personne/ jour pour le secteur rural ; - la diminution du taux de perte à 25 %. Afin de subvenir aux besoins de la ville, HCMV doit augmenter ses capacités de distribution. Sa capacité totale d’approvisionnement en eau devra atteindre 2 428 000 m3/jour à l’horizon 2015, 2 905 000 m3/ jour à l’horizon 2020 et 3 508 000 m3/jour à l’horizon 2025, requérant des financements conséquents. Entre 2010 et 2015, 8 500 milliards de VND devront être mobilisés et entre 2015 et 2025, 11 000 milliards de VND seront nécessaires pour mener à bien sa politique en matière d’accès à l’eau. 3. Participation des acteurs économiques au service d’approvisionnement en eau à HCMV a) Politique et textes juridiques Le Règlement sur la socialisation (« réforme ») des services d’approvisionnement en eau (promulgué en annexe de la Décision 141/2005/QĐ-UBND) introduit six formes de participation : 1) Investissement dans la production d’eau, l’organisation des activités commerciales ou la vente d’eau en gros à Sawaco via le compteur central dans des secteurs démunis du réseau d’approvisionnement en eau, 2) Investissement dans la production d’eau, la vente d’eau en gros à Sawaco via le compteur central dans des secteurs équipés du réseau, 3) Investissement dans l’amélioration d’une partie ou sur la totalité du réseau pour diminuer le taux de perte, 4) Collaboration avec Sawaco par le biais d’un contrat de coopération pour distribuer l’eau dans des secteurs urbains dépourvus de réseau de distribution d’eau. Type de transports : camions citerne ou bateau, 5) Collaboration avec Sawaco par le biais d’un contrat de coopération pour l’investissement financier dans l’application des nouvelles technologies 21 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Đối với các nhà đầu tư tham gia vào các hình thức hợp đồng này, quy chế có nhiều ưu đãi nhằm khuyến khích và kêu gọi đầu tư, ví dụ: - Giảm 50% tiền sử dụng đất hoặc các nhà đầu tư - - có thể được miễn tiền sử dụng đất (nếu đầu tư tại các huyện Nhà Bè, Cần Giờ) ; Miễn tiền thuê đất từ ba đến sáu năm. Nếu đầu tư ở Nhà Bè, Cần Giờ, thời gian được miễn từ 11-13 năm; Giảm 50% thuế sử dụng đất trong bảy năm. Nếu đầu tư ở Nhà Bè, Cần Giờ thời gian được giảm từ 11-15 năm; Miễn hai năm và giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong hai năm tiếp. Nếu đầu tư ở Nhà Bè, Cần Giờ được miễn ba năm và giảm trong bảy năm; Miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng trong việc cấp nước. Năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định 117/2007/ NĐ-CP tạo khuôn khổ cho các hoạt động trong lĩnh vực nước sạch với các quy định cụ thể như sau: - Giá nước sạch phải được tính đúng, tính đủ các ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT - Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển cấp nước, - Dự án đầu tư xây dựng cấp nước được Nhà nước hỗ trợ: • Chi phí bồi thường, giải phóng mặt bằng khi triển khai dự án cấp nước, • Hỗ trợ lãi suất, • Miễn tiền sử dụng đất. Ngoài ra, Nghị định số 108/2009 NĐ-CP của Chính Phủ cũng quy định về hình thức Xây dựng-Khai thácChuyển giao (BOT), Xây dựng-Chuyển giao-Khai thác (BTO), Xây dựng-Chuyển giao (BT) . Các công ty đầu tư theo các hình thức BOT, BTO, BT sẽ được: - Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp; - Miễn tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất trong suốt destinées à l’amélioration de la productivité, de la qualité et à l’augmentation des volumes d’eau produits, 6) Achat de l’eau de Sawaco via le compteur central et organisation des activités commerciales. Pour les investisseurs qui s’engagent dans ce type de contractualisation, le règlement prévoit un certain nombre d’avantages visant à encourager leur participation. Ainsi, l’investisseur peut bénéficier de différentes mesures telles que : - la réduction de 50 % de la redevance foncière. - vòng đời của dự án; - Ưu đãi thuế nhập khẩu thiết bị cần thiết cho dự án theo các quy định về thuế nhập khẩu; - Hỗ trợ về cơ sở hạ tầng và dịch vụ công cộng (đường giao thông ...). - yếu tố chi phí sản xuất hợp lý, Khái niệm về hợp đồng Sau khi chính quyền thành phố chọn phương thức tổ chức và chiến lược phát triển quan hệ đối tác thì bước tiếp theo, thành phố được quyền quyết định hình thức hợp đồng và sau đó đưa ra khuôn khổ tổ chức thực hiện. Việc lựa chọn mô hình quan hệ đối tác công – tư dựa trên sự phân chia trách nhiệm giữa các bên: sở hữu tài sản; mức độ trách nhiệm và quyền tự chủ cho đối tác tư nhân; vốn đầu tư theo yêu cầu; quy định; thời gian hợp đồng; và quan hệ hợp đồng với người sử dụng. Giữa một bên là hoàn toàn thuộc nhà nước: Nhà nước chịu trách nhiệm thực hiện toàn bộ dịch vụ và một bên là tư nhân hóa hoàn toàn, nhà nước chỉ có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi và quản lý hành chính. Giữa hai thái cực này, có rất nhiều dạng hợp tác giữa nhà nước và tư nhân. Việc lựa chọn dạng nào sẽ được phân tích sâu trong phần bên dưới. Mỗi quốc gia lựa chọn hình thức hợp đồng khác nhau trong quan hệ đối tác công-tư cho phù hợp với tình hình của mình. Trên thực tế, các hình thức hợp đồng này thường được kết hợp với một số mô hình cơ bản: hợp đồng dịch vụ và quản lý, hợp đồng cho thuê, hợp đồng nhượng giao, hợp đồng BOT (Xây dựng-Kinh doanh-Chuyển giao) hoặc chuyển nhượng hoàn toàn quyền sở hữu. - L’investisseur peut bénéficier d’une exemption de la redevance foncière s’il s’implante dans les districts Nha Be et Can Gio ; l’exemption du paiement du loyer du terrain pendant une période de trois à six ans. Si l’investissement est réalisé à Nha Be et Can Gio, cette durée peut s’étendre de onze à treize ans ; la réduction de 50 % de la taxe foncière pendant sept ans. Si l’intervention a lieu à Nha Be et Can Gio, cette durée est de onze à quinze ans ; l’exemption de l’impôt sur les sociétés pendant deux ans et réduction de 50 % de cet impôt pendant les deux années suivantes. La durée respective est de trois et sept ans pour Nha Be et Can Gio ; l’exemption de la taxe d’importation pour les équipements et les moyens de transport spécifique au secteur de l’approvisionnement en eau. En 2007, un décret a été promulgué afin d’encadrer les activités du secteur de l’eau, il s’agit du Décret n° 117/2007/NĐ-CP du Gouvernement. Celui-ci stipule que : - le prix de l’eau doit être calculé correctement en tenant compte des coûts raisonnables de la production (coûts entrant dans la production) ; - l’ensemble des acteurs économiques doit être encouragé à participer aux investissements pour le développement du réseau ; - les projets d’investissement au niveau national bénéficieront d’aides des autorités sur : • l’indemnisation et la libération des terrains nécessaires pour la mise en place du projet, • le taux d’intérêt, • l’exemption de la redevance foncière. Il existe par ailleurs un autre décret, le Décret n° 108/2009/NĐ-CP du Gouvernement, portant sur les formes Built-Operate-Transfer (BOT), Build-TransferOperate (BTO), Built-Transfer (BT). Les entreprises qui investissent sous les formes BOT, BTO, BT bénéficieront : - d’avantages sur les impôts sur les sociétés ; - de l’exemption de la redevance foncière ou du loyer du terrain durant le cycle de vie du projet ; - d’avantages sur la taxe d’importation des équipements nécessaires pour le projet conformément aux règlements sur la taxe d’importation ; - des infrastructures et des services publics (routes…). Définitions des contrats Dès que la municipalité a choisi le mode d’organisation et une stratégie de développement du partenariat, elle peut passer à l’étape suivante qui consiste à sélectionner une option contractuelle et éventuellement formaliser ensuite le cadre organisationnel. Les principales options du Partenariat public - privé peuvent être définies clairement selon la répartition des responsabilités pour des fonctions telles que : la propriété des actifs ; le niveau de responsabilité et d’autonomie déléguées au secteur privé ; l’investissement en capital requis ; la régulation ; la durée du contrat ; et, enfin, la relation contractuelle avec l’usager. À l’une des extrémités du spectre, on trouve l’option d’un secteur entièrement public, où l’État est responsable de toutes les étapes de la fourniture du service concerné. À l’autre extrémité du spectre, on trouve les cas où l’État délègue totalement la responsabilité du service au secteur privé, et ne conserve que ses rôles de facilitateur et d’autorité de régulation. Entre ces deux extrêmes, il existe pléthore d’autres possibilités. Le choix d’une option spécifique s’effectue en s’appuyant sur une analyse approfondie, décrite plus loin dans ce module. Différents pays ont adopté différentes options contractuelles pour leurs partenariats public-privé. Dans la pratique, ces contrats sont souvent hybrides ou combinent plusieurs options de base : contrats de services et de gestion ; contrats d’affermage ; contrats de concession ; contrats de BOT (Build-Operate-Transfer) ; ou transfert total de propriété par cession. 22 23 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Sơ đồ trình bày các hình thức khác nhau của mối quan hệ đối tác Schéma des différentes formes de partenariat public-privé Định nghĩa rộng nhất có thể về quan hệ đối tác công – tư Définition la plus large possible des partenariats public-privé Ngành hoàn toàn thuộc khu vực nhà nước xây dựng Ký kết hợp đồng Cùng thực hiện: công theo kiểu sở hữu chung truyền thống: Trách nhiệm thiết kế chung xây dựng Ngành hoàn toàn thuộc khu vực công Khu vực nhà nước Người cung cấp dịch vụ Hợp đồng dịch vụ: khai thác Bảo trì Đầu tư công: Vốn Bảo đảm vốn vay Cấp vốn Đầu tư Xây dựng Khai thác : BOT Nhượng giao TRÁCH NHIỆM ĐẦU TƯ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC Ngành hoàn toàn thuộc khu vực tư nhân Xây dựng Khu vực tư nhân Tạo điều kiện thuận lợi, điều tiết, kiểm soát Secteur entièrement public : construction sensibilisation Passation traditionnelle de contrat public : conception construction Investissement privé passif : obligations d’état Secteur public Prestataire Co-entreprises : Propriété conjointe responsabilité conjointe Contrats de service : exploitation, maintenance Investissement public passif : capital garanties d’emprunt allocations Construire, exploiter et investir : BOT concession RESPONSABILITE DE L’INVESTISSEMENT RÔLE DE L’ÉTAT Secteur entièrement privé : à but lucratif Secteur privé Facilitateur et Autorité de régulation Source : www.undp.org Nguồn : www.undp.org B.O.T (Xây dựng, Vận hành, Chuyển giao): là loại hợp đồng phổ biến nhất và gần giống với hợp đồng nhượng giao. Nhà nước giao cho công ty tư nhân đầu tư xây dựng và khai thác công trình. Sau đó bàn giao lại cho nhà nước khi kết thúc hợp đồng. B.O.O.T (Xây dựng, Sở hữu, Vận hành, Chuyển giao): hợp đồng này áp dụng cho các dự án lớn. Nhà đầu tư được quyền sở hữu tài sản trong thời gian dài và vì thế có thể khấu hao các khoản chi phí đầu tư. B.O.O.S.T (Xây dựng, Sở hữu, Vận Hành, Hỗ trợ, Chuyển giao): một biến thể của BOT và BOOT, trong đó nhà đầu tư được nhà nước hỗ trợ một phần để hạn chế rủi ro trong dự án. D.B.F.O (Thiết kế, Xây dựng, Tài chính, Vận hành): nhà nước giao cho nhà đầu tư thực hiện trọn gói công trình, từ thiết kế đến khai thác (điều 3, Luật số 2002-1094 ngày 29 tháng 8 năm 2002 và điều 3, Luật số 2002-1138 ngày 9 tháng 9 năm 2002). B.L.T (Xây dựng, cho thuê, chuyển giao): hợp đồng mà trong đó tư nhân chịu trách nhiệm xây dựng cơ sở hạ tầng và chuyển giao cho chính quyền khai thác. Chủ đầu tư thu hồi dần chi phí đầu tư xây dựng và lợi nhuận theo thòa thuận. B.O.O (Xây dựng, Sở hữu, Vận hành): nhà đầu tư có quyền sở hữu và khai thác công trình xây dựng. B.T.O (Xây dựng, Chuyển giao, Vận hành) Nguồn: www.jurispolis.com 24 Le B.O.T. (Build, Operate, Transfer) : Contrat le plus répandu et proche de la concession. Il s'agit de confier à la société de projet la construction et l'exploitation d'un ouvrage que celle-ci devra rétrocéder en fin de contrat. Le B.O.O.S.T. (Build, Own, Operate, Subsidize, Transfer) : Une variante de BOT et de BOOT, en incluant une subvention de la personne publique limitant le risque pour la société de projet. Le B.L.T. (Build, Lease, Transfer) : Contrat dans lequel le privé se contente de construire l’infrastructure et de la transférer à l’autorité publique qui l’exploite à son compte. L’investisseur reçoit le remboursement des coûts d’invetissement et une marge bénéficiaire négociée Le B.O.O.T. (Build, Own, Operate, Transfer) : utilisé pour des opérations de grande ampleur. Confère un droit réel sur les biens en cause pendant une longue durée et permet ainsi d'amortir les investissements qui ont été consentis. Le D.B.F.O. (Design, Build, Finance and Operate) : s'apparente au MTEP (marché de travaux publics) en conférant une mission globale à la société de projet qui va concevoir les infrastructures qu'elle exploitera elle-même (art. 3, L. n°2002-1094 du 29 août 2002 et art. 3, L. 2002-1138 du 9 septembre 2002). Le B.O.O. (Build, Own, Operate) : Le titulaire du contrat conserve la propriété de l'ouvrage qu'il a construit et exploite. Le BTO (Build, Transfer, Operate) : Construction, transfert et exploitation Source : www.jurispolis.com/ 25 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Các mô hình hợp đồng trong lĩnh vực cấp nước Les options institutionnelles pour la gestion de l’eau Mức độ rủi ro đối với doanh nghiệp Niveau de risque pour l’entreprise Privatisation Tư nhân hóa Cao Étendu Nhượng giao Franchies Société à risques partagées Chia sẻ rủi ro Location, bail, affermage Thuê, khoán Hoạt động cung cấp dịch vụ Hạn chế Không Ủy thác quản lý Quản lý công Quyền Mãi mãi Ủy thác Không ủy thác Ngắn hạn Trung hạn Hạn chế Một phần Nul Dài hạn Mãi mãi Gần như hoàn toàn Hoàn toàn Droits Délégation Nguồn: "Ủy thác quản lý nước : nhiều sự lựa chọn" - Marcel Boyer, Đại học Montréal và CIRANO*, Michel Patry, Trường cao cấp thương mại và CIRANO, Pierre J. Tremblay, CIRANO. Montréal, Tháng 7 năm 2010. * CIRANO : Trung tâm liên trường đại học Nghiên cứu và phân tích các tổ chức Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 9 tháng 11 năm 2010, ban hành qui chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công –tư. Quyết định này cũng có các ưu đãi cho mối quan hệ đối tác công tư tương tự như các hình thức BOT, BTO hay BT. b) Minh họa sáu hình thức đầu tư đang được thực hiện ở TPHCM (xem Quyết định 141/2005/ QĐ-UBND – 3.a) - Hình thức 1: Công ty Hiệp Ân (1.500m3/ngày) và Công ty Hằng Hải (1.500m3/ngày). Hai công ty này khai thác mạch nước ngầm ở quận 8. Công ty Đoàn Nguyễn xử lý nước lợ để cung cấp 5.000m3 /ngày ở huyện Cần Giờ. Hình thức khai thác nước ngầm này có thể sẽ bị hủy bỏ vì Thành phố đang có chủ trương hạn chế khai thác nước ngầm. - Hình thức 2: Nhà máy sản xuất nước sạch. Trong trường hợp này, nhà đầu tư ký hợp đồng với Thành phố về việc Thành phố đảm bảo mua - - nước của họ. Ví dụ, Công ty Bình An đã ký hợp đồng BOT về việc sản xuất 100.000 m3/ngày. Nhà máy nước Thủ Đức sản xuất 300.000 m3/ngày với hình thức đầu tư Xây dựng – Sở hữu – Vận hành (BOO). Nhà máy Kênh Đông sắp đi vào hoạt động với công suất 200.000 m3/ngày. Hình thức 3: dự án giảm thất thoát nước trong mạng lưới cấp nước của Sawaco. TPHCM được chia thành sáu khu vực. Dự án này đang trong quá trình thực hiện tại khu vực 1 và 2 với công ty Manila Water. Hình thứ 4: Công ty dịch vụ công ích huyện Cần Giờ quản lý việc vận chuyển và cấp nước cho các hộ dân trong huyện Hình thức 5: Chưa được triển khai Hình thức 6: Hình thức này áp dụng cho các khu dân cư mới xây dựng (khu dân cư Trung Sơn, khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng) và các khu công nghiệp trong đó chủ đầu tư phải xây dựng mạng lưới cấp nước. Gestion déléguée Gestion Publique Perpétuels Aucune Court Moyen Limitée Partielle Long terme Perpétuels Quasi totale Complète Source : « La gestion déléguée de l'eau : les options » - Marcel Boyer, Université de Montréal et CIRANO*, Michel Patry, École des HEC et CIRANO, Pierre J. Tremblay, CIRANO. Montréal, Juillet 2010. * CIRANO : Centre interuniversitaire de recherche en analyse des organisations Le Décision n° 71/2010/QĐ-TTg du 09/11/2010 promulgue un règlement à titre expérimental (forme peu répandue) sur le partenariat public – privé. Cette Décision accorde à ce type de partenariat les mêmes avantages que pour les formes BOT, BTO et BT. b) Illustrations des six types de participations du privé dans des projets d’investissement1 - 1ère forme : les sociétés Hiep An (1 500 m3/jour) et Hang Hai (1 500 m3/jour) exploitent une nappe phréatique dans le district 8. La société Doan Nguyen approvisionne le district de Can Gio avec 5 000 m3/jour en exploitant de l’eau saumâtre. Ce type d’exploitation des sources souterraines est amené à disparaître car la ville cherche à limiter l’exploitation des nappes phréatiques. - 2ère forme : la production d’eau par des usines. Dans ce cas, les investisseurs ont signé une 1 26 Ententes de services Limité convention avec la ville qui leur assure l’achat de leur eau. La société Bình An a ainsi signé un BOT pour la production de 100 000 m3/jour. La station Thu Duc produit 300 000 m3 jour d’eau par jour grâce à un Build-Own-Operate (BOO). - 3ère forme : projet de réduction des pertes d’eau sur le réseau de Sawaco, divisé en six zones. Ce projet est en cours de réalisation sur les zones 1 et 2 avec Manila Water. - 4ère forme : la société de services publics de Can Gio gère la distribution d’eau pour les foyers dans le district rural Can Gio. - 5ère forme : pas encore mise en place. - 6ère forme : celle-ci s’applique aux quartiers résidentiels nouvellement construits (tels que Trung Sơn, ou encore la ville nouvelle de Phu My Hung) au sein desquels le développeur doit construire les réseaux ; elle s’applique aussi à quelques zones industrielles. Décision 141/2005/QĐ-UBND – 3.a) 27 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI c) Đánh giá bước đầu về chính sách xã hội hóa dịch vụ cấp nước Kết quả đạt được: - Sự tham gia của các nhà đầu tư tư nhân khá mạnh trong lĩnh vực sản xuất nước sạch (chiếm 26% tổng lượng nước sản xuất). - Sự tham gia của tư nhân đã góp phần giải quyết việc cấp nước cho các khu vực chưa có nước và bổ sung nguồn cấp nước cho thành phố. Các mặt hạn chế: - Giá bán nước không đủ bù đắp chi phí sản xuất. - - Thêm nữa, giá nước do UBND TP phê duyệt bị khống chế nên giá mua nước sỉ cũng bị hạn chế. Tất cả những yếu tố này không hấp dẫn được các nhà đầu tư vì khó tạo lợi nhuận; Thiếu thông tin và định hướng cho nhà đầu tư; Các quy định không rõ ràng và hay thay đổi; Thủ tục hành chính phức tạp, kéo dài và mất thời gian. Nhiều đầu mối quản lý chất lượng nước với tiêu chuẩn khác nhau (Bộ Y tế, Bộ Tài nguyên và Môi trường…) Các tiêu chuẩn thường không tương thích với nhau Năng lực quản lý mạng lưới cấp nước của nhà đầu tư trong nước còn hạn chế, không chuyện nghiệp ; Các nhà đầu tư nhỏ chủ yếu khai thác nước ngầm và hình thức khai thác này không bền vững; Không có cơ chế bảo đảm cho các nhà đầu tư nhỏ khi nguồn nước của Sawaco đủ đáp ứng và do đó làm cho nhà đầu tư không yên tâm. 4. Một số ví dụ điển hình về đầu tư tư nhân Công ty Đặng Đoàn Nguyễn: Công ty Đặng Đoàn Nguyễn, nằm ở huyện Cần Giờ, hoạt động từ năm 2008. Với số vốn ban đầu là 90 tỷ đồng. Công ty sản xuất nước sạch từ nước lợ (5.000 m3/ngày, dự kiến 10.000 m3/ngày vào 2012). Công ty Đặng Đoàn Nguyễn xử lý nguồn nước này và bán sỉ với giá 15.600 VND/m3 cho công ty dịch vụ công ích huyện Cần Giờ. Sau đó, Công ty dịch vụ công ích bán lại cho các hộ dân theo giá quy định của Thành Phố với giá thấp hơn (4.500đ/m3 trong định mức), ngân sách thành phố bù lỗ phần chênh lệch. Khó khăn: - Sản xuất nước sạch từ nước lợ có chi phí sản xuất cao và phụ thuộc điều kiện tự nhiên. Hiện nay, độ mặn nguồn nước tăng, do đó phải tăng chi phí xử lý, phải thay đổi công nghệ…; - Thị trường tiêu thụ và doanh thu của công ty Đặng Đoàn Nguyễn không được đảm bảo khi Sawaco triển khai mạng lưới cấp nước cho huyện Cần Giờ. ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT c) Première évaluation de la politique de socialisation du service d’approvisionnement en eau potable Résultats obtenus : - la participation des investisseurs privés est assez forte concernant la production d’eau potable (26 % du volume total produit). - Elle contribue à régler la question d’approvisionnement en eau pour les secteurs démunis du réseau de Sawaco et à renforcer la production d’eau en général. Points faibles : - le prix de vente approuvé de l’eau au détail n’est Công ty Hiệp Ân: Công ty Hiệp Ân được thành lập năm 2002, có vay vốn ban đầu là 2 tỷ đồng và trả trong vòng tám năm. Công ty sản xuất 1.500 m3/ngày nước cho sinh hoạt hằng ngày (trong đó bán cho Sawaco 800 và bán cho các hộ dân 700) bằng cách khai thác mạch nước ngầm của khu vực quận 8. Công ty có tỉ lệ thất thoát khoảng 10% trên mạng lưới cấp nước. - Khó khăn: - - Năng lực tài chính của công ty thấp. Giá bán nước không đủ để trang trải chi phí sản xuất và chi phí điện để bơm nước. Công ty Hiệp Ân phải đối mặt với khó khăn tài chính và khó tuân thủ thời hạn hoàn trả tiền vay ban đầu; - Hợp đồng bán nước cho Sawaco được ký hàng năm. Do đó, hoạt động của công ty không được bảo đảm bền vững; - Mạng lưới của Sawaco càng mở rộng, thì Công ty Hiệp Ân càng mất khách hàng. - - Công Ty TNHH Xây dựng Thương mại Trung Sơn: Công ty Trung Sơn cấp nước cho Khu dân cư Trung - pas à la hauteur des coûts de production, car le prix de l’eau est limité par le Comité Populaire. D’autre part, le prix d’achat de l’eau en gros est bas. Par ailleurs, ce prix doit être approuvé par le comité populaire de la ville ce qui représente un processus très long. L’ensemble de ces éléments n’est donc pas attrayant aux yeux des investisseurs qui ont du mal à dégager des marges de bénéfice ; le manque d’information et d’orientation pour les investisseurs ; les règlements ne sont pas clairs et changent souvent ; les formalités administratives sont compliquées, longues et laborieuses. De nombreux organismes gèrent la qualité de l’eau, selon des critères différents, comme par exemple le Ministère de la santé et le Ministère des ressources naturelles et de l’environnement. la capacité de gestion du réseau par les investisseurs locaux est limitée car souvent, ils manquent de professionnalisme ; les petits investisseurs exploitent essentiellement la nappe phréatique or ce mode d’exploitation n’est pas durable ; il n’existe pas de mécanisme de protection des petits opérateurs, ce qui ne crée pas un climat de confiance pour les investisseurs. 4. Quelques exemples d’investissements privés 28 échelonné accordé par l’Etat. Elle produit de l’eau à partir d’eau saumâtre à raison de 5 000 m3/jour avec une actuelle prévision de 10 000 m3/jour d’ici 2012. La société Dang Doan Nguyen traite cette eau et vend en gros cette eau devenue propre à 15 600 VND/m3 à la Société des services publics de Can Gio. A son tour, celle-ci la revend à un prix fixé par la Ville, inférieur à 4 500 VND/m3, l’écart étant financé par le budget de la ville. Difficultés rencontrées : - le traitement de l’eau saumâtre génère des coûts élevés et dépend des conditions naturelles. Actuellement, plus l’eau est salée, plus les coûts de traitement augmentent, il faut changer les technologies… ; - les débouchés et les revenus de la société Dang Doan Nguyen ne seront pas assurés lors de la mise en service du réseau d’approvisionnement en eau de Sawaco à Can Gio. La Société Hiep An : La société Hiep An a été créée en 2002. Un prêt de départ s’élevant à 2 milliards de VND lui a été accordé avec un remboursement s’étalant sur huit ans. Elle produit 1 500 m3/jour d’eau propre destinée à la consommation par jour (dont 800 vendus à Sawaco et 700 aux particuliers) grâce à une nappe phréatique située dans le district 8. La société enregistre un taux de perte d’environ 10 % sur son réseau. Difficultés rencontrées : - la capacité financière de cette société est faible. Le prix de vente ne couvre ni les frais de production, ni le coût de l’électricité nécessaire au pompage de l’eau. La société Hiep An se retrouve donc face à des difficultés financières et peine à respecter l’échelonnement du remboursement prévu ; - le contrat de vente avec Sawaco est un contrat annuel. Les activités de la société ne sont donc pas assurées sur le long terme ; - plus le réseau de Sawaco s’étend, plus le nombre de clients de la Société Hiep An diminue. La Société Dang Doan Nguyen : La Société de construction et de commerce Trung Sơn : La société Dang Doan Nguyen, implantée dans le district Can Gio, existe depuis 2008 et possède un capital initial de 90 milliards de VND avec un remboursement (de quel remboursement s’agit-il ?) La société Trung Sơn alimente le réseau d’approvisionnement en eau du quartier résidentiel Trung Sơn dans le district Binh Chanh. Cette société 29 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Sơn huyện Bình Chánh. Công ty đã đầu tư mạng lưới cấp nước cho toàn khu dân cư với tổng diện tích 6,57 ha, gồm 176 lô biệt thự và nhà liên kế, 560 căn hộ, hiện có khoảng 700 hộ với khoảng 3.300 dân sinh sống trong khu vực. Công ty Trung Sơn mua nước của Sawaco và bán lại gần 1.300 m3/ngày cho các hộ dân. Tỷ lệ nước thất thóat là 10%. Khó khăn: - Mua nước với giá cao từ Sawaco (thấp hơn 10 % so với giá bán lẻ). Trong giá bán lại nước cho các hộ dân, Công ty Trung Sơn phải tính thêm: • Thất thoát nước trong mạng lưới • Khấu hao vốn đầu tư. Vì vậy, giá bán lại cho người dân trong khu dân cư này cao hơn giá bán ngoài khu vực. - Công ty Trung Sơn thiếu chuyên nghiệp trong quản lý mạng lưới. Sawaco không tiếp quản vì mạng lưới được xây dựng không phù hợp với qui chuẩn. Khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng: Công ty Phú Mỹ Hưng xây dựng mạng lưới cấp nước cho khu đô thị tại quận 7. Khu đô thị có tổng diện tích 500 ha với khoảng 50.000 dân (tính cả khách vãng lai). Mạng lưới được xây dựng từ 1993 đến 1997 với chi phí lên đến 27 triệu USD. Tổng lượng nước mua sỉ là 15.000 m3/ngày với tỷ lệ thất thoát là 20%. Giá bán bằng giá mua vào, không phân biệt đối tượng sử dụng. Khó khăn: - Công ty Phú Mỹ Hưng thiếu chuyên nghiệp trong việc quản lý mạng lưới phân phối nước; - Thiếu cơ sở để xác định giá mua nước và giá bán nước cho khách hàng trong khu vực; - Chi phí cho phần thất thoát, bảo trì và sửa chữa được tính trong chi phí quản lý chung tại khu đô thị mới. Khó khăn trong việc hạch toán riêng phần cấp nước; - Lượng nước do Sawaco cấp không ổn định. Khu đô thị phải mua thêm nước từ xe bồn với giá cao nên phải bù phần chênh lệch với giá bán. 30 Nhận xét và trao đổi Ông Miras: Các nhà đầu tư tư nhân là một thành phần quan trọng trong lĩnh vực cấp nước tại TPHCM. Thật vậy, theo trình bày của Bà Hoàng Thị Kim Chi, 26% lượng nước sản xuất ra ở TPHCM là do các doanh nghiệp ngoài nhà nước cung cấp. Hỏi: Sự tham gia này diễn biến như thế nào? Sự tham gia này diễn ra mạnh mẽ trong thời gian gần đây? Tốc độ tham gia của các đơn vị tư nhân như thế nào? Bà Hoàng Thị Kim Chi: Tỷ lệ nói trên đạt được trong năm nay là nhờ sự vận hành của nhà máy nước ở Thủ Đức với sản lượng 300.000 m3 nước/ngày (Ghi chú: Nhà máy nước Thủ Đức không được xem là một nhà cung cấp nước nhỏ vì đây là dự án BOO). Những năm trước, tỷ lệ các nhà đầu tư tư nhân tham gia cung cấp nước không cao (trung bình khoảng 100.000 m3 nước/ngày). Những năm tới, vẫn chưa có kế hoạch cụ thể, một số dự án vẫn đang chờ được triển khai do còn thiếu sự đầu tư tư nhân trong thời gian này. Ông Cluzeau: TPHCM có các nguồn tài nguyên nước nào? Tại sao nguồn nước ngầm lại không bền vững? Bà Hoàng Thị Kim Chi: Tại TPHCM có 2 nguồn tài nguyên nước: - Nguồn nước sông: sông Sài Gòn và sông Đồng Nai; - Nguồn nước ngầm: Các đơn vị cấp nước nhỏ và Sawaco khai thác với số lượng 100.000 m3/ngày. Hiện nay, Thành phố kiểm soát được việc khai thác nước ngầm trong các nhà máy, nhưng gặp khó khăn lớn trong việc kiểm soát các giếng khoan nhỏ ở các cơ sở nhỏ và hộ gia đình. Thành phố không quản lý được tất cả các điểm khai thác nước ngầm trên địa bàn. Vì vậy, rất khó xác định lượng nước ngầm bị khai thác. Do đó, có thể có nhiều nguy cơ: - Khai thác quá mức, - Ô nhiễm, - Đất sụt lún. Ông Ifraseen đề cập lại vấn đề cần giải quyết trong bài trình bày về việc một công ty đã xây dựng mạng ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT a investi dans la construction du réseau d’eau pour ce quartier qui couvre 6,57 ha et se compose de 176 villas et maisons individuelles et de 560 appartements. Actuellement, 700 foyers soit 3 300 habitants vivent dans ce quartier. La société Trung Son achète de l’eau à Sawaco et revend près de 1 300 m3 d’eau par jour aux foyers. Son taux de perte s’élève à 10 %. Difficultés rencontrées : - le prix d’achat de l’eau à Sawaco est élevé (10 % de moins que le prix au détail). Sur le prix de revente aux foyers, il faut tenir compte : • des pertes dans le réseau, • ainsi que de l’amortissement des investissements. Le prix de revente dans ce quartier est donc plus cher que le prix appliqué en dehors de ce quartier. - la société Trung Son manque de professionnalisme dans la gestion du réseau. Sawaco ne souhaite pas assurer la reprise de la gestion de ce réseau car celui-ci n’est pas conforme et ne répond pas aux normes selon Sawaco. La ville nouvelle Phu My Hung : La société Phu My Hung a construit le réseau d’eau pour cette ville qui se situe dans le district 7. Cette ville nouvelle couvre 500 ha et accueille 50 000 habitants y compris les travailleurs pendulaires. Le réseau a été construit entre 1993 et 1997 avec un financement de 27 millions de dollars. La quantité d’eau achetée s’élève à 15 000 m3 par jour avec un taux de perte de 20 %. Il n’existe pas de différence entre le prix d’achat et le prix de revente, qui se fait sans distinction d’usage. Difficultés rencontrées : - manque de professionnalisme dans la gestion de réseau de distribution d’eau de la part de la société Phu My Hung ; - manque de fondements pour déterminer le prix d’achat et de revente aux habitants ; - les pertes et les coûts de maintenance et de réparation du réseau sont intégrés dans le coût général de la gestion de la ville nouvelle. Il est difficile de déterminer les coûts dédiés à l’approvisionnement en eau ; - la quantité d’eau fournie par Sawaco n’est pas stable. La société Phu My Hung doit acheter de l’eau supplémentaire qu’elle livre par camions citernes à des prix élevés. Elle doit donc prendre en charge la différence entre le prix d’achat et le prix de revente. Remarques et échanges M. de Miras remarque que les petits opérateurs privés semblent être une composante importante de la distribution d’eau à HCMV. En effet, la présentation de Mme Kim Chi fait état d’un taux de participation des acteurs non-étatiques à la distribution d’eau à hauteur de 26 % du volume d’eau produit. Dès lors, M. de Miras souhaiterait savoir quelle est la dynamique et l’évolution de ce taux : est-ce une accélération récente ? À quel rythme interviennent ces opérateurs ? Mme Kim Chi répond que ce chiffre a été atteint cette année avec la mise en service de la station de Thu Duc qui distribue 300 000 m3 d’eau par jour (Thu Duc ne peut pas être considéré comme un petit opérateur privé c’est un BOO). Avant cette année, la capacité de distribution des petits opérateurs était plus faible (en moyenne environ 100 000 m3 d’eau par jour). Pour les années à venir, il n’existe pas de plan précis, certains projets sont en veille du fait du manque d’investisseurs privés capables de répondre pour le moment. M. Cluzeau souhaiterait savoir quelles sont les ressources en eau à HCMV et pourquoi les ressources en eaux souterraines ne sont pas durables. Mme Kim Chi explique qu’à HCMV il existe deux types de ressources en eau : - les rivières : la rivière Saigon et la rivière Dong Nai ; - l’eau souterraine : se sont les petits opérateurs et Sawaco qui l’exploite à hauteur de 100 000 m3/jour. Actuellement la ville arrive à contrôler l’exploitation de l’eau souterraine dans les grandes usines. En revanche, elle rencontre de grandes difficultés à contrôler les petits forages effectués par les petites exploitations et les familles ; La ville ne gère donc pas l’ensemble des exploitations à HCMV. Pour ces raisons, il est très difficile d’établir des chiffres concernant l’exploitation des eaux à HCMV. Dès lors, plusieurs risques guettent : - la sur-exploitation, - la pollution, - l’affaissement des terrains. M. Ifrassen revient sur la problématique abordée pendant la présentation concernant une société qui a réalisé un réseau ne répondant pas aux normes à posteriori, entraînant alors un refus de la part de Sawaco d’intégrer le réseau. M. Ifrassen s’interroge sur le fait que la Sawaco n’ait été consultée ni en 31 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI lưới không đáp ứng với tiêu chuẩn cho phép, dẫn đến việc Sawaco từ chối tiếp nhận mạng lưới. Ông Ifrassen hỏi: Trước khi tiến hành xây dựng mạng lưới, chủ đầu tư có trình hồ sơ thiết kế mạng lưới cho Sawaco xem xét và phê duyệt không? Ở Maroc, các chủ đầu tư không được phép xây dựng mạng lưới nếu đơn vị sau này tiếp quản mạng lưới không phê duyệt thiết kế và nghiệm thu công trình. Bà Hoàng Thị Kim Chi: Công ty nói trên là chủ đầu tư phát triển khu dân cư và đồ án quy hoạch cũng như hồ sơ thiết kế mạng lưới do Sở Xây dựng phê duyệt. Luật không quy định hồ sơ này phải được Sawaco thông qua. Trong quá trình xây dựng, một số tiêu chuẩn đòi hỏi phải tốn nhiều kinh phí đã không được tuân thủ. Đó là lí do vì sao công trình chưa đạt tiêu chuẩn của Sawaco. Ông Cluzeau: Cơ quan nào đưa ra các quy chuẩn về thiết kế hệ thống cấp nước, chất lượng, chi phí…. và cơ quan nào chịu trách nhiệm theo dõi việc tuân thủ các quy chuẩn này? Bà Hoàng Thị Kim Chi: Bộ Xây dựng ban hành các quy chuẩn đó. Một đại diện của Sawaco chia sẻ một số ý để làm rõ câu trả lời cho các câu hỏi nêu trên: Sự tham gia của các nhà đầu tư tư nhân bắt đầu từ năm 1998 với nhà đầu tư Malaysia tham gia đầu tư và khai thác một nhà máy cấp nuớc với công suất 100.000m3 nước/ngày. Bản hợp đồng hiện nay đang được triển khai. Sawaco khuyến khích các đơn vị quản lý mạng lưới cấp nước giảm tỷ lệ thất thoát nước. Chính sách của Sawaco là dần dần đóng cửa các trạm khai thác nước nhỏ và chỉ giữ lại những nhà máy cấp nước cung cấp tối thiểu 100.000m3 nước/ngày. Đại diện của Sawaco cũng cho biết các thông số kỹ thuật về nước ngầm do Sở Tài nguyên và Môi trường (Sở TN & MT) quản lý. Theo quy định của Việt Nam, chủ đầu tư tư nhân phải trình dự án lên các sở, ban ngành có liên quan cho ý kiến, nhưng không trình cho Sawaco. Thành phố quan niệm mạng lưới được xây dựng thuộc sở hữu của chủ đầu tư. Các tiêu chuẩn về chất lượng nước do nhiều Bộ khác nhau ban hành. Sở Xây dựng chịu trách nhiệm ban hành các tiêu chuẩn xây dựng các công trình phục vụ phân phối nước. Nhằm giảm chi phí, trong nhiều trường hợp, các chủ đầu tư tư nhân chỉ áp dụng những tiêu chuẩn tối thiểu phải có. Điều đó dẫn đến hệ thống cấp nước không đạt tiêu chuẩn. Sawaco không ghi nhận tỷ lệ thất thoát nước của các đơn vị cấp nước nhỏ. Trên thực tế, tỷ lệ này khá cao và góp phần làm tăng tỷ lệ thất thoát nước trong toàn hệ thống. Mỗi khi Sawaco quyết định tiếp nhận quản lý mạng lưới của các nhà đầu tư tư nhân, thì chi phí quản lý lại tăng lên. Do đó, Sawaco mong muốn bán sỉ lượng nước cho các nhà đầu tư và họ chịu trách nhiệm quản lý cũng như phân phối số nước này. Dự án BOT này đã đạt được thành công vượt bậc. Sau đó, vào năm 2005, Thành phố đã ban hành quy định về sự tham gia của các nhà đầu tư nhỏ. Vào năm 2010, một nhà máy cấp nước theo hình thức BOO đã đi vào hoạt động với công suất thực là 270.000m3/ ngày (công suất thiết kế là 300.000 m3/ngày). Năm 2011, theo dự kiến, Sawaco sẽ tiếp nhận nguồn nước từ một nhà máy do một công ty liên doanh giữa Sawaco và một số nhà đầu tư cung cấp. Công ty Sawaco cũng làm việc với các đối tác khác để xây dựng một nhà máy nước tại Thủ Đức. Ông Cluzeau: Cơ quan nào quản lý về thoát nước và xử lý nước thải tại TPHCM? Đối với việc giảm tỳ lệ thất thoát nước trong mạng lưới, Sawaco đã ký hợp đồng với một công ty Phillipine. Ông Cluzeau: Đơn vị nào sản xuất và phân phối điện tại TPHCM? Bà Hoàng Thị Kim Chi: Công ty thoát nước Thành phố quản lý hệ thống thoát nước. Trung tâm chống ngập điều phối một số chương trình và dự án chống ngập cũng như xử lý nước thải. Ông Miras: Thành phố có tổng kết kinh nghiệm về sự tham gia của khu vực tư nhân và rút ra được những kinh nghiệm gì? ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT amont de la réalisation de l’ouvrage afin de valider le projet, les plans et le réseau dans son ensemble, ni pour le suivi des travaux. Au Maroc, les investisseurs ne peuvent pas construire si le gestionnaire principal du réseau, qui reprend les ouvrages construits en gestion dans son parc, n’a pas été consulté pour valider le projet à tous les stades de réalisation. Mme Kim Chi répond que la société en question a réalisé le développement d’une zone résidentielle dont les plans doivent être validés par le Département de la Construction (DoC). La loi n’indique pas que ces plans doivent être validés par Sawaco. Lors de la construction, certaines normes coûteuses n’ont sans doute pas été respectées, d’où la réalisation d’un ouvrage non conforme aux normes de Sawaco. M. Cluzeau souhaiterait savoir qui définit les normes à HCMV en termes de cahier des charges : distribution, qualité, coûts… et qui est chargé d’effectuer ce suivi. Mme Kim Chi précise que le Ministère de la Construction (MoC) élabore ces normes. Le représentant de Sawaco indique que les cahiers des charges sont gérés par le Département des Ressources Naturelles et de l’Environnement (DONRE). Le règlement vietnamien indique que l’investisseur privé doit présenter son projet au préalable afin qu’il soit approuvé par les différents services techniques de la ville. Mais l’avis de Sawaco n’intervient pas, la ville considère que le réseau construit est la propriété de l’investisseur. Les normes sur la qualité de l’eau sont indiquées par différents ministères. Quant aux normes pour la construction d’un ouvrage dédié à la distribution d’eau, elles sont promulguées par le Département de la Construction (DoC). L’investisseur privé, dans la majorité des cas, applique les normes minimales afin d’entraîner un coût économique moindre. Cela donne lieu à des réseaux qui ne respectent plus les normes. Un représentant de la société Sawaco apporte des précisions aux questions posées par les différents experts. La participation des opérateurs privés a démarré en 1998 avec un investisseur malaisien qui gérait une usine d’approvisionnement en eau d’une capacité de 100 000 m3/jour. Ce projet de type BOT a connu un vif succès. Par la suite en 2005, la ville a promulgué un décret régulant la participation des petits opérateurs. En 2010 un nouveau projet d’usine d’approvisionnement en eau de forme BOO a vu le jour avec une capacité théorique de 300 000 m3/ jour dont 270 000 m3/jour effectifs. En 2011, il est prévu que Sawaco reçoive, au sein de son réseau, l’eau produite par une joint-venture entre Sawaco et plusieurs investisseurs. La société Sawaco travaille également avec d’autres partenaires privés pour la construction d’une autre station de production d’eau à Thu Duc. Le taux de perte de l’eau chez les petits opérateurs n’est pas comptabilisé par Sawaco. Dans les faits, celui-ci est élevé et contribue à l’augmentation du taux de perte sur l’ensemble du réseau. Lorsque Sawaco récupère la gestion des réseaux des investisseurs privés, ceci engendre une augmentation du coût de gestion. Sawaco préfère donc vendre à l’investisseur l’eau en gros qui est chargé de gérer cette eau et de la distribuer. En ce qui concerne le taux de réduction des pertes d’eau sur le réseau, un contrat a été signé entre Sawaco et une société phillipine. Ce contrat est actuellement en phase de mise en œuvre. Sawaco encourage tous les acteurs gérant un réseau de distribution d’eau à la réduction des pertes d’eau. M. de Miras revient sur le Décret n° 71/2010/QĐ-TTg du 09/11/2010 qui promulgue un règlement à titre expérimental (forme peu répandue) sur le partenariat public – privé. Il souhaiterait savoir quels sont les retours d’expériences sur la mise en place des petits opérateurs et quels ajustements peuvent déjà être dégagés de ces expériences. La politique de Sawaco tend à la fermeture des petites stations d’exploitation d’eau pour à terme ne 32 garder que celles qui produisent au minimum 100 000 m3 d’eau par jour. M. Cluzeau demande quels sont les dispositifs qui existent à HCMV en matière d’assainissement ? Mme Kim Chi explique qu’il existe une société municipale qui se charge de l’assainissement et de l’évacuation des eaux. La question de l’assainissement est très délicate à HCMV du fait des inondations, d’où la création d’un centre de lutte contre les inondations. M. Cluzeau souhaite savoir qui est en charge de la production et de la vente de l’électricité à HCMV. 33 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Bà Hoàng Thị Kim Chi: Tổng Công ty Điện lực Việt Nam (EVN) sản xuất và phân phối điện ở Việt Nam. Mỗi thành phố có một công ty riêng nhằm phục vụ cho việc cung cấp điện trong khu vực. Ở TPHCM, đó là Công ty điện lực Thành phố (EVN-HCM) Ông Cluzeau: Ở Việt Nam, giá nước là yếu tố gây khó khăn cho việc phân phối nước. Cần kết hợp ngành nước với ngành khác để giữ được giá nước thấp nhằm phục vụ cho số đông người dân. Ở Maroc, 3 mạng lưới: cấp nước, thoát nước - xử lý nước thải và điện do một công ty duy nhất quản lý. Điều này tạo thuận lợi cho việc bù chéo giữa các ngành này. Ngành điện sẽ bù cho ngành nước. Tại TPHCM, giá bán điện có lãi không? Bà Hoàng Thị Kim Chi: Ở Việt Nam, khu vực tư nhân không tham gia vào việc phân phối điện. Nhà nước có chủ trương giữ giá điện thấp để hỗ trợ các ngành sản xuất. II. Quản trị đa chủ thể trong lĩnh vực cấp nước và xử lý nước thải tại các thành phố lớn ở các nước mới nổi - điều kiện triển khai thực hiện (Trình bày Ông Miras, Viện Nghiên cứu Phát triển, IRD) Những kinh nghiệm trong việc phân phối nước sạch và xử lý nước thải của Maroc được trình bày trong khóa tập huấn nhằm mục đích chia sẻ với Việt Nam, một đất nước cũng đang phát triển như Maroc. Việt Nam và Maroc có nhiều điểm tương đồng : Đây đều là hai quốc gia mới nổi với tốc độ đô thị hóa nhanh và có quyết tâm giải quyết các thách thức của xã hội. Sự can thiệp của chính quyền về việc cấp nước và xử lý nước thải ảnh hưởng mạnh đến tổ chức không gian đô thị thông qua việc sử dụng đất. Thật vậy, sự hiện diện về vật chất của mạng lưới cấp, thoát nước rõ nét hơn rất nhiều so với các mạng lưới khác, ví dụ mạng điện thoại di động. Vấn đề đất đai liên quan đến nhiều chủ thể và nhiều quy trình thủ tục khá phức tạp. Tại Maroc, một chương trình quốc gia có quy mô lớn "Sáng kiến quốc gia vì sự phát triển con người" (INDH) đã được triển khai thực hiện vào năm 2005 theo yêu cầu của Vua Mohammed VI. Chương trình dựa trên hai đơn vị chủ lực : Công ty Idmaj-Sakan và Công ty Lydec. Hai công ty này đảm trách hai mảng chính trong Chương trình : xóa các khu nhà lụp xụp và cải tạo, chỉnh trang các khu dân cư tự phát. Ông Ifrassen (Giám đốc Idmaj-Sakan) sẽ trình bày vấn đề xóa bỏ khu nhà ở lụp xụp, còn Ông Cluzeau (Giám đốc dự án Lydec –INMAE) sẽ giới thiệu chương trình nâng cấp mạng lưới hạ tầng kỹ thuật tại các khu dân cư tự phát. Chương trình INDH là một ví dụ về sự kết hợp giữa nghiên cứu khoa học và hành động trên thực tế. Sự kết hợp này rất thú vị và nên được phát triển vì nghiên cứu khoa học góp phần đưa ra cách nhìn khách quan với một khoảng lùi nhất định, đề ra các giải pháp hỗ trợ ra trong quyết định trên cơ sở phân tích, tổng hợp các hoạt động đã triển khai. Điều này là cần thiết trong bối cảnh tính khẩn cấp là động cơ chủ yếu thúc đẩy các hành động của nhà nước nhằm đáp ứng các yêu cầu của quá trình đô thị hóa mạnh mẽ. Tính phức tạp trong quyết định của nhà nước liên quan đến ba yếu tố: - tốc độ đô thị hóa mạnh mẽ, - thách thức lớn về kinh tế, - có nhiều chủ thể liên quan. Đầu tiên, Ông Miras trình bày về mối quan hệ giữa nghiên cứu khoa học và hành động trên thực tế trong khuôn khổ chương trình INDH ở Casablanca. Sau đó, Ông sẽ trình bày một số suy nghĩ tổng quan về công tác quản lý, điều hành đa chủ thể trong ngành nước. 1. Mối liên hệ chặt chẽ giữa IRD và chương trình INDH a) Tại sao và làm thế nào thiết lập mối quan hệ đối tác ? Những trao đổi với Ông Cluzeau về việc tổng kết kinh nghiệm trong việc tiếp cận dich vụ cấp nước và xử lý nước thải của các khu dân cư tự phát sau đó đã được cụ thể hóa bằng hợp đồng làm việc chung. Một số điểm chính trong hợp đồng này sẽ được trình bày bên dưới. ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Mme Kim Chi explique que la compagnie générale d’Electricité du Vietnam (EVN) assure la production et la distribution de l’électricité au Vietnam. Chaque ville possède une compagnie lui étant propre pour la distribution de l’électricité. Ici, il s’agit d’EVN-HCMV. M. Cluzeau expose qu’au Vietnam, le facteur prix limite la distribution de l’eau au plus grand nombre. Il s’agit de trouver des combinaisons pour que les prix soient maintenus à un coût bas pour que le plus grand nombre bénéficie de ce service. Au Maroc, les trois réseaux eau, assainissement et électricité sont regroupés et gérés par un même acteur, permettant ainsi la péréquation suivante : l’électricité paie les marges de déficit engendré par l’eau. A HCMV, le prix de vente de l’électricité est-il excédentaire ? Mme Kim Chi indique qu’au Vietnam, le secteur privé ne participe ni à la production, ni à la distribution de l’électricité. La politique est de tirer les prix vers le bas pour soutenir le secteur de la production. II. La gouvernance multi-acteurs de l’eau potable et de l’assainissement dans les grandes villes des pays émergents – Les conditions de mise en œuvre (M. de Miras, Institut de Recherche pour le Développement, IRD) La présentation de l’expérience marocaine en matière de distribution d’eau potable et d’assainissement durant cet atelier présente une opportunité pertinente pour les échanges entre les pays du sud. Le Vietnam et le Maroc possèdent deux contextes qui présentent des similitudes. Il s’agit de deux pays en émergence avec une urbanisation forte et une volonté nationale de résoudre ces défis sociaux. L’intervention publique dans le secteur de la distribution d’eau et de l’assainissement marque fortement l’espace urbain notamment à travers le foncier. En effet, l’empreinte physique et matérielle des réseaux d’eau est beaucoup plus forte que celle de la téléphonie mobile par exemple. Ces aspects fonciers vont donc interpeller un certain nombre d’acteurs et entraîner des procédures assez pesantes. Au Maroc, un grand programme national appelé Initiative Nationale pour le Développement Humain (INDH) a été mis en place en 2005 par sa Majesté Mohammed VI. Il s’appuie notamment sur deux piliers institutionnels que constituent les sociétés 34 Idmaj-Sakan et Lydec, correspondant au traitement de deux composantes majeures du programme que sont respectivement les bidonvilles et l’habitat non réglementaire. Ces deux thématiques seront abordées plus tard par M. Ifrassen (Directeur IdmajSakan) qui traitera de l’éradication des bidonvilles et par M. Cluzeau (Directeur du Projet Lydec - INMAE) qui exposera l’avancée des réseaux dans les quartiers non réglementaires. L’exemple de ce programme INDH illustre la relation qui s’est mise en place entre une expertise scientifique et la démarche opérationnelle de mise en œuvre du programme. Ce montage à double entrée (opérationnel/expertise-recherche) semble intéressant à développer puisque la contribution scientifique a pour but de porter un regard distancié, de proposer des solutions d’aide à la décision à partir d’une analyse synthétique de l’opérationnel. Ce recul est pertinent et nécessaire compte tenu de la puissance du processus d’urbanisation dans lequel l’urgence est le moteur des initiatives de l’action publique. Par ailleurs, la complexité de la décision publique implique trois facteurs : - l’importance des rythmes d’urbanisation - des enjeux économiques importants, - la multiplication des acteurs. M. de Miras souhaite présenter dans un premier temps la collaboration entre l’aspect opérationnel et l’expertise scientifique qui s’effectue dans le cadre de la mise en œuvre du programme à Casablanca. Dans un second temps, M. de Miras proposera une réflexion plus générale sur le terme de la gouvernance comme carrefour impliquant l’ensemble des acteurs concernés par la problématique de l’eau. 1. Une collaboration étroite entre l’IRD et le programme INDH a) Pourquoi et comment un tel partenariat ? Les échanges avec M. Cluzeau sur la manière de capitaliser l’expérience d’accès aux services d’eau et d’assainissement dans l’habitat non réglementaire au sein de l’INDH ont abouti à un accord dans un cadre contractuel permettant ainsi un travail commun dont les grands axes vont être exposés ci-après. Il s’agit d’une présentation du point de vue de l’expert scientifique qui implique d’abord une observation puis un feed-back permettant d’établir les points forts et les points faibles des projets. 35 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Ba nhân tố thúc đẩy mối quan hệ hợp tác: - Dữ liệu: Cho phép định lượng tình hình quản lý đa chủ thể. Việc tổng kết các hoạt động đã thực hiện và các kết quả đạt được đã tiến hành. Trên cơ sở các dữ liệu này, ta có thể phân tích các điểm mạnh và điểm yếu của hệ thống. - Các yếu tố cản trở: Xác định các yếu tố chính cản trở hành động để từ đó đề ra giải pháp hướng đến sự phối hợp hiệu quả giữa các chủ thể. Cách tiếp cận này cho phép tiến tới mối quan hệ đối tác giữa các bên có liên quan. Mối quan hệ đối tác này sẽ được khởi động ngay khi yếu tố cản trở được xác định. Khi đó, các cuộc đàm phán có thể được tiến hành để giải quyết vấn đề. Mối quan hệ đối tác công- tư là một giải pháp nhằm huy động và phát huy kinh nghiệm của nhà nước cũng như tư nhân. Đơn vị tư nhân xem việc xác định các yếu tố cản trở như là một thách thức để cải thiện chất lượng dịch vụ công. Cách tiếp cận này chỉ có thể thực hiện được khi nó được chính quyền và đơn vị tư nhân chấp thuận. Chính điều này giúp các bên tháo gỡ vướng mắc. Đây là cách tiếp cận đầy sáng tạo. - Các công cụ điều hành: hợp đồng khung, thỏa thuận, biên bản cuộc họp…là các công cụ quan trọng để giám sát hoạt động và truy xuất nguồn gốc của quyết định. Ba yếu tố trên là nội dung chính của công tác tổng kết kinh nghiệm và làm sáng tỏ một số đặc điểm của quy trình quyết định đa chủ thể. Mối quan hệ hợp tác giữa IRD và chương trình INMAE-INDH giúp tổng hợp và làm sáng tỏ các cơ chế thực hiện hành động. Sự hợp tác này là vì lợi ích chung. Những kinh nghiệm trên có thể được chia sẻvà phát huy giá trị nhằm giải quyết các vấn đề của quốc gia trong cuộc chiến chống đói nghèo vì sự phát triển con người. b) Tiếp cận thực tế dưới góc độ nghiên cứu Việc tổng kết kinh nghiệm đang được triển khai và sẽ cho kết quả trong sáu tháng tới. Các kết quả này sẽ được sử dụng dưới nhiều dạng khác nhau. Đây là mối quan hệ đối tác khoa học không bị ràng buộc về tài chính, theo logic hai bên cùng có lợi. Đối với Ông De Miras, đây thật sự là một dự án nghiên cứu, còn đối với Ông Cluzeau, các kết quả của nghiên cứu này có thể giúp cải thiện hoạt động của dự án. Đây là mối quan hệ hợp tác theo dạng hợp đồng và dựa trên sự phối hợp, trao đổi ý tưởng. Kinh phí cho dự án INDH được huy động bằng nhiều cơ chế cụ thể. Các công cụ mới được sử dụng để triển khai thực hiện chương trình này rất đáng để chúng ta nghiên cứu. Maroc có rất nhiều sáng kiến để đưa ra các giải pháp phù hợp với hoàn cảnh của địa phương. Không có mô hình mẫu định sẵn. Thời kỳ nhập khẩu nguyên mẫu các mô hình phát triển đã kết thúc. Điều thú vị của khóa học này là nó cho phép chúng ta trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm để làm nổi lên các giải pháp phù hợp với bối cảnh hiện tại của TPHCM. 2. Suy nghĩ về công tác điều hành Trong bối cảnh đô thị hóa nhanh chóng ở các nước mới nổi, việc tiếp cận mạng lưới cấp, thoát nước ở bất kỳ nơi nào trên thế giới đều gặp phải các câu hỏi lớn sau đây: - nguồn nước, - chia sẻ nguồn nước mặt và nước ngầm giữa các - quốc gia trên thế giới, cạnh tranh trong nước giữa các lĩnh vực (nông nghiệp, công nghiệp, đô thị, du lịch) trong việc sử dụng nguồn tài nguyên, giá nước sạch và xử lý nước thải, tương trợ giữa các tầng lớp xã hội, giữa các địa phương và giữa các thế hệ, đầu tư lớn vào mạng lưới, nâng cấp hệ thống xử lý nước thải, việc tiếp cận mạng lưới ở các khu vực đô thị phát triển tự phát, bù chéo về tài chính giữa các ngành (điện, nước...), các nguồn tài chính mới cần huy động, đào tạo nâng cao năng lực, …. ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Trois facteurs ont poussé à cette collaboration : - Les données, afin de permettre une quantification de l’état de gouvernance multi-acteurs. Une rétrospective des actions entreprises et des résultats obtenus, a été établie ; elle constitue une base objective sur laquelle il est possible d’établir une réflexion des forces et faiblesses du système. - Les facteurs bloquants ou l’identification des difficultés rencontrées. Il s’agit ici d’essayer de repérer les éléments stratégiques qui posent problème dans le but d’apporter des solutions qui permettront de tendre vers une coordination efficace entre acteurs. Cette approche permet d’engager un travail partenarial avec les différentes parties prenantes qui démarre concrètement lorsque le facteur bloquant est identifié. Dès lors, les négociations peuvent être engagées afin de résoudre le problème rencontré. Le partenariat publicprivé constitue une solution qui s’enrichit des expériences des domaines public et privé. L’identification des difficultés peut ainsi être envisagée par l’opérateur comme un défi à relever pour améliorer le service public. Cette approche ne peut fonctionner que parce qu’elle est partagée à la fois par les autorités et les opérateurs privés, ce qui permet de dépasser les obstacles. C’est en cela que cette approche est innovante. - Les outils de la gouvernance, ici il s’agit d’une démarche et d’une stratégie formalisée à travers des contrats cadres, des conventions, des procèsverbaux et comptes-rendus de réunions. Il s’agit d’outils importants permettant de suivre les opérations menées à travers la traçabilité de la décision. Ces trois facteurs constituent la base d’une capitalisation et d’une mise en évidence de certaines caractéristiques de ce processus de décision multiacteurs. Cette démarche de partenariat entre l’IRD et le programme INMAE-INDH permet de synthétiser, de prendre du recul et de comprendre les mécanismes à l’oeuvre. Elle s’inscrit dans une perspective collective d’intérêt national, bien commun marocain qui peut être partagé et mis en valeur afin de répondre aux enjeux nationaux de lutte contre la pauvreté pour un développement humain au Maroc. b) Une approche pratique sous l’angle de la recherche La capitalisation des différents éléments est donc 36 en cours et aboutira dans les six prochains mois à des résultats dont plusieurs usages et formats sont envisagés. La relation qui existe est un partenariat scientifique sans implication financière. Il s’agit d’une logique « gagnant/gagnant » car les intérêts dans la capitalisation du projet de coopération sont partagés. Pour M. de Miras il s’agit d’un véritable projet de recherche en tant que tel et pour M. Cluzeau et l’institution qui porte le projet, les résultats obtenus pourront servir à améliorer les rouages du projet. La relation est contractuelle et s’ouvre sur une synergie de réflexions. Le financement du projet INDH fait appel à des mécanismes spécifiques. La mise en œuvre de ce programme est un exemple intéressant de valeur ajoutée faisant appel à des outils originaux qui méritent d’être étudiés de près. Le Maroc est un pays qui innove en développant des solutions propres mises en œuvre localement. Il n’existe pas de modèle prêt à penser. Le temps des modèles importés est terminé, d’où l’intérêt de cet atelier qui permet le recul nécessaire à la réflexion pour l’émergence de solutions propres aux contextes en question. 2. Réflexion sur la gouvernance Dans les contextes d’urbanisation rapide des pays émergents, le raccordement aux réseaux en eau potable et assainissement pose partout les mêmes grandes questions : - disponibilité de la ressource en eau, - partage international des eaux de surface et souterraines, - concurrence nationale (agriculture, industrie, - urbanisation, tourisme) des usages de la ressource, tarification de l’eau potable et de l’assainissement, péréquation sociale, territoriale et générationnelle, investissements massifs en réseaux, mise à niveau de l’assainissement, accès aux réseaux des extensions urbaines spontanées, financements croisés entre secteurs (électricité, eau, etc.), financements innovants à mobiliser, ressources à trouver, formation des compétences, etc. 37 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Nhiều câu hỏi được đặt ra chung cho các thành phố lớn mới nổi với cùng những mục tiêu và hạn chế. Nhưng, vấn đề nổi bật hiện nay là "điều hành đa chủ thể". Vì nó mang tính quyết định đối với tất cả các vấn đề khác. Tất cả các thành phố đều đối mặt với việc xác định "vai trò của các chủ thể" vốn là vấn đề lớn. Cách tiếp cận này vượt lên trên các yếu tố về kỹ thuật và tài chính để đề cập đến công tác quản lý, hiệu quả hoạt động của các định chế và sự điều phối giữa Dự án/chủ thể/ngành. a) Điều hành đa chủ thể: định nghĩa Trước tiên, cần định nghĩa "điều hành đa chủ thể" là gì để chúng ta cùng thống nhất về mặt từ ngữ. Điều hành đa chủ thể là phương thức ra quyết định với sự phối hợp đồng bộ giữa nhiều chủ thể liên quan đến hành động của nhà nước, ở quy mô ngành (cấp nước, thoát nước, điện, rác, nhà ở, đường giao thông, giao thông…) và ở quy mô dự án được thực hiện trên địa bàn đô thị. Cách tiếp cận quy hoạch đô thị dưới góc nhìn quản lý/điều hành buộc chúng ta phải vượt qua logic phân chia và tính phức tạp, vốn tạo ra sự quá tải về dự án và quá tải trong hành động của các chủ thể. Ngành cấp và thoát nước có tác động mạnh đến đất đai, do đó buộc phải có sự phối hợp hiệu quả giữa tất cả các bên có liên quan, ngay từ lúc thiết kế, lắp đặt trang thiết bị đến lúc bảo trì mạng lưới. Công ty cấp nước là trung tâm của tất cả các đối tác. Vấn đề quản lý mạng lưới không bó hẹp trong việc quản lý nước và đường ống, mà còn liên quan đến việc xây dựng thành phố và cả bộ máy hành chính của thành phố. Điều hành việc cấp và thoát nước có thể được đề cập theo các khía cạnh dưới đây: - Các chủ thể tham gia vào công tác quản lý và mở rộng mạng lưới, vào việc sử dụng nước sạch và xử lý nước thải, - Cơ chế điều hành đa chủ thể, - Các chi phí cho điều hành và chi phí tăng thêm khi không có sự đồng bộ trong quản lý và xây dựng mạng lưới, - Điều tiết sự phối hợp đa chủ thể. 38 b) Điều hành: Các chủ thể là ai ? Với chủ trương "Đổi Mới" và việc mở rộng cạnh tranh trên thế giới, số chủ thể có liên quan đến cấp, thoát nước ở Việt Nam gia tăng đáng kể: - Quốc gia, Cơ quan hành chính, Định chế quốc tế, Nhà tài trợ, Chính quyền địa phương, Đơn vị thực hiện của nhà nước và tư nhân, Tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước, Hội đoàn tại địa phương, Hợp tác trực tiếp giữa các địa phương trên thế giới. Trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, nhiều đơn vị (sở, ban ngành) có liên quan đến quy trình phát triển mạng lưới (kỹ thuật, quy định, tài chính, quy hoạch đô thị…). Do đó, phải có sự phối hợp giữa các đơn vị này để góp phần đưa ra các quyết định tốt và đồng bộ. c) Vận hành của quản lý đa chủ thể Vấn đề hiện nay là làm sao để tổ chức mối liên hệ giữa các bên liên quan. Nhiều yếu tố (bên trong các chủ thể ra quyết định và giữa các chủ thể này) làm cho quá trình ra quyết định về thiết kế, phê duyệt và triển khai dự án phát triển mạng lưới cấp, thoát nước trở nên phức tạp và mất nhiều thời gian: - Sự tăng trưởng đô thị nhanh chóng buộc phải tăng nguồn cung về cấp, thoát nước nhằm bù đắp cho sự chậm trễ trong thời gian qua và đáp ứng các nhu cầu mới; - Nhiều dự án phát triển đô thị không có sự điều phối và trên quy mô địa bàn rất khác nhau làm gia tăng nhanh chóng số lượng hồ sơ, đối tác, nhà tài trợ, đơn vị có liên quan. Từ đó dẫn đến việc các sở, ban ngành của thành phố bị quá tải; - Quỹ đất dành cho hệ thống cấp và thoát nước khá quan trọng do đó phải có sự tham gia của nhiều chủ thể có ảnh hưởng đến hệ thống đất đai (khác với trường hợp điện thoại di động); ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT De nombreuses questions sont communes à l’ensemble des grandes villes des pays émergents qui ont les mêmes objectifs et les mêmes contraintes. Mais la problématique émergente est aujourd’hui celle de la gouvernance multi-acteurs car elle détermine largement toutes les autres, toutes ces villes sont en effet confrontées à un « jeu d’acteurs » propre. Cette approche dépasse les seuls aspects techniques et financiers pour aborder la problématique du management, de la performance institutionnelle et de la coordination entre Projets/Acteurs/Secteurs. a) La gouvernance multi-acteur : définition La gouvernance multi-acteurs doit au préalable être définie afin de s’entendre sur les termes. Il s’agit d’un mode de décision qui met en synergie la multiplicité des acteurs concernés par l’action publique, à l’échelle des secteurs (eau, assainissement, électricité, déchets, habitat, voirie, transport, etc.) et des « projets » réalisés sur des territoires infraurbains. L’approche de l’urbanisme sous le prisme de la gouvernance oblige à dépasser les logiques de découpage et la complexité qu’entraîne l’entassement des projets et des acteurs rendant l’action difficile. Les secteurs de l’eau et de l’assainissement qui ont un fort impact foncier obligent à une coordination efficace entre toutes les parties prenantes, depuis la conception, l’équipement jusqu’à la maintenance des réseaux. Si la compagnie des eaux est au centre de cet ensemble complexe, la question des réseaux ne se limite pas à la gestion de l’eau et des tuyaux mais concerne la fabrication de la ville et ses rouages administratifs. La gouvernance de l’eau et de l’assainissement peut être abordée selon les perspectives suivantes - la scène de la gouvernance et les acteurs intervenant dans la gestion et l’extension des réseaux et l’utilisation de l’eau potable et de l’assainissement, - le fonctionnement de la gouvernance multiacteurs, - les coûts de gouvernance et surcoûts des dysfonctionnements en matière de gestion et création des réseaux, - la régulation de la coordination multi-acteurs. b) La scène de la gouvernance : Qui sont les acteurs concernés ? Avec le Doi Moi au Vietnam et avec l’ère de la dérégulation internationale, le nombre des parties prenantes concernées a augmenté considérablement : - les Etats nationaux, les administrations, les institutions internationales, les bailleurs, les collectivités locales ou les circonscriptions territoriales, les opérateurs privés et publics, les ONG internationales et nationales, les associations locales, les coopérations décentralisées internationales. De plus, dans les administrations publiques, les différents services impliqués dans les procédures d’implantation des réseaux (d’ordre technique, règlementaire, financier, de planification urbaine, etc.) doivent aussi être coordonnés pour contribuer ensemble à prendre les bonnes décisions de façon synchronisée. c) Le fonctionnement de la gouvernance multiacteurs La question est ici de savoir comment s’organisent les relations entre les parties prenantes. De nombreux facteurs (internes aux parties prenantes décisionnaires et entre celles-ci) rendent complexes et lents les circuits de décision en matière de conception, de validation et de mise en œuvre des projets de raccordement aux réseaux d’eau et d’assainissement : - la croissance urbaine rapide qui oblige l’offre de services en eau et assainissement à rattraper les retards accumulés et à satisfaire les demandes nouvelles ; - la multiplication des projets de développement non coordonnés entre eux, sur des échelles territoriales différentes surcharge les services par la multiplication des dossiers, des partenaires, des bailleurs, des intervenants administratifs de tous ordres ; - l’empreinte territoriale et foncière des réseaux d’eaux et d’assainissement suppose l’intervention de nombreux acteurs compte tenu de l’impact foncier de ces réseaux (différent du cas de la téléphonie mobile) ; 39 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI - Nguy cơ chồng chéo về thẩm quyền và cạnh tranh giữa các sở ngành; - Khả năng xác định phạm vi và sự phối hợp hành động của các cơ quan điều tiết. d) Chi phí và chi phí phát sinh thêm cho công tác điều phối Nghiên cứu tác động về mặt tài chính của công tác điều hành đa chủ thể giúp làm sáng tỏ một số điểm rất thú vị. Công tác điều hành đa chủ thể có hiệu quả sẽ tác động tích cực đến việc kiểm soát chi phí của dự án cấp nước và từ đó kiểm soát được nhu cầu vốn. Bằng cách xác định và làm giảm "các yếu tố cản trở" (theo cách gọi của LYDEC/INMAE), phương pháp theo dõi và điều phối này giúp hạn chế chi phí xã hội, môi trường và kinh tế vốn do việc chậm trễ trong tiến độ thực hiện các dự án cấp nước gây ra. Tất cả các chi phí phát sinh thêm không nhìn thấy được làm tăng nhu cầu vốn của nhà đầu tư. Điều hành đa chủ thể có hiệu quả là một lập luận rất quan trọng để huy động các nguồn vốn cần thiết cho dự án. Trong một dự án mở rộng mạng lưới, thông thường, chi phí đầu tư được cố định ngay từ đầu dự án. Nhưng, chi phí đầu tư thực tế tính đến cuối dự án và chi phí bảo trì, vận hành mạng lưới thì không được xem xét cụ thể. Thêm vào đó, chi phí và chi phí tăng thêm do việc ra quyết định chậm trễ, việc điều chỉnh dự án không cần thiết hoặc mâu thuẫn, sự không thống nhất giữa các định chế cũng không được đánh giá và xác định. Bằng cách xác định nguồn gốc các vướng mắc và nhờ sự can thiệp của các cấp có thẩm quyền giải quyết các xung đột này, ta có thể tìm được sự thỏa hiệp cần thiết để đảm bảo tiến độ của dự án. Ảnh hưởng của các chi phí ẩn gắn với việc chậm tiến độ của dự án và với khó khăn trong việc điều phối không được tính đến, nhưng các chi phí ẩn này cuối cùng cũng có ai đó phải chi trả. Trên thực tế, chi phí kinh tế trong dự án không nên giới hạn ở chi phí ước tính trong đầu tư, mà nên tính cả các khoản chi phí thực tế phát sinh do các hoạt động của các tổ chức. 40 Đối tượng trả các chi phí ẩn này có thể là: - người dân: nguy cơ về sức khỏe, mua nước từ nhiều nguồn khác nhau, từ đó phát sinh những cơ sở cung cấp nước tư nhân và khoan giếng…; - môi trường: khai thác nguồn nước không được kiểm soát, xả nước thải chưa qua xử lý….; - thành phố: sức hấp dẫn của thành phố sẽ suy giảm do các dự án cấp nước bị chậm trễ; - chính bản thân dự án cấp nước: làm giảm cơ hội huy động các nguồn vốn mới. Chất lượng của công tác điều hành đa chủ thể chắc chắn là một yếu tố cần xem xét khi dự án muốn thu hút vốn đầu tư của tư nhân. Trên bình diện quốc tế, thông thường, người ta nhấn mạnh vào công tác "điều hành tốt". Nó bao gồm cả cuộc đấu tranh chống tham nhũng như thể tham nhũng là nguyên nhân hoặc giải pháp cho mọi khó khăn. Dĩ nhiên, số tiền tham nhũng có được là vi phạm với các quy định của pháp luật. Nhưng ở một mặt nào đó, tuy rất mâu thuẫn, việc tham nhũng chứng tỏ có nhiều tiềm năng để nâng cao hiệu suất hoạt động của các định chế và có thể tận dụng điều này để đẩy nhanh tiến độ giải quyết hồ sơ. Điều hành đa chủ thể và hiệu quả của nó chắc chắn là một trong những hướng cần xem xét trong chiến lược tìm kiếm nguồn tài chính. Dù ở khâu lập dự án hay bảo trì hay vận hành mạng lưới, thì khả năng sinh lợi về mặt tài chính của các dự án được quyết định phần lớn bởi chất lượng của công tác điều hành đa chủ thể. e) Quản lý công tác điều hành đa chủ thể Làm sao để quản lý công tác điều hành đa chủ thể và bằng công cụ gì? Trong lĩnh vực cấp, thoát nước ở đô thị, cơ quan nào ở cấp quốc gia và cấp địa phương có thẩm quyền và khả năng tăng cường điều hành đa chủ thể? Làm thế nào tăng cường hiệu quả của điều hành đa chủ thể? Rất nhiều câu hỏi cần đặt ra nhằm tối ưu hóa công tác điều hành đa chủ thể để thực hiện các dịch vụ công một cách có hiệu quả hơn. Việc xác định vấn đề có thể dựa trên một số câu hỏi bổ sung như sau: Hiện nay, chất lượng của việc điều phối giữa các chủ thể như thế nào? Dự án nào chậm trễ và vì nguyên nhân nào? Dự án nào thành công? ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT - les risques de chevauchement de compétences ou de concurrence entre services ; - la plus ou moins grande capacité des entités de régulation à limiter l’autonomie des institutions concernées et à harmoniser et synchroniser leur fonctionnement. d) Les coûts et les surcoûts de coordination Il est intéressant d’étudier notamment l’impact financier de la gouvernance multi-acteurs. Une gouvernance multi-acteurs performante a une incidence positive sur la maîtrise des coûts des projets de raccordement donc sur leurs besoins de financement. En identifiant et réduisant les « facteurs bloquants » (ainsi désignés par Lydec/INMAE), ce monitoring et cette coordination limitent les coûts sociaux, les coûts environnementaux et les charges économiques imposées par les retards d’avancement et de réalisation des projets de raccordement. L’ensemble de ces surcoûts non visibles pèsent sur les besoins de financement des opérateurs. Enfin, une gouvernance multi-acteurs efficiente est un argument essentiel pour mobiliser des ressources nécessaires au bouclage financier des projets. Dans un projet d’extension de réseaux, généralement, les coûts d’investissement sont fixés au début du projet. Toutefois, ni les coûts d’investissement réels mesurés à la fin du projet, ni les coûts de maintenance et de fonctionnement ne sont pris en considération. De plus, les coûts et les surcoûts liés aux retards des décisions et de la maîtrise d’œuvre, aux modifications contingentes ou contradictoires, aux oppositions institutionnelles, ne sont ni évalués ni localisés. En situant l’origine de ces « pannes » institutionnelles et en faisant intervenir les autorités de tutelle capables d’arbitrer les conflits locaux, il peut être possible de trouver hiérarchiquement les compromis nécessaires pour assurer l’avancement des projets. L’impact de ces coûts cachés liés à la lenteur des projets et à la difficulté de leur coordination n’est pas évalué alors que ces coûts cachés doivent nécessairement être pris en charge. En réalité, le coût économique complet d’un projet ne devrait pas se limiter à ce coût prévisionnel d’investissement, il devrait également prendre en compte le coût effectif induit par le fonctionnement des institutions. Ces coûts cachés peuvent être externalisés vers : - les populations, entraînant des risques sanitaires, le besoin d’achat d’eau par d’autres voies, la présence installations privées ou de forages privés, etc. ; - l’environnement, avec des prélèvements non contrôlés de ressources hydriques, des rejets d’effluents bruts ; - le territoire urbain concerné, dont l’attractivité, est affecté par les retards des projets de raccordement ; - le projet d’extension lui-même qui voit diminuer ses chances de mobiliser de nouvelles ressources de financement. La qualité de la gouvernance multi-acteurs est sans doute un élément à considérer dans la capacité des projets à attirer les financements privés. L’accent est souvent mis au niveau international sur la « bonne gouvernance ». Elle recouvre la lutte contre la corruption comme si elle était la cause ou la solution à toutes les difficultés. Certes, ces versements indus, établis en contradiction avec les législations, ont des effets très ambigus. Certains de ces effets tendraient à démontrer paradoxalement qu’il peut exister des gisements de productivité institutionnelle qui seraient exploités en accélérant l’avancement des dossiers. La gouvernance multi-acteurs et son efficacité sont sans doute une des dimensions à considérer dans une stratégie de recherche de financement. Que ce soit pour leur montage, leur maintenance ou leur fonctionnement, la rentabilité financière des projets est largement déterminée par la qualité de cette gouvernance multi-acteurs. e) La régulation de la gouvernance multiacteurs Comment réguler cette gouvernance multiacteurs et avec quels outils ? En matière d’eau et d’assainissement urbain, quelles autorités nationales et locales ont la vocation et la capacité de régulation apte à renforcer la gouvernance multi-acteurs ? Comment accroître les performances de cette gouvernance multi-acteurs ? Autant de questions qui doivent être posées afin d’optimiser la gouvernance multi-acteurs dans le but de rendre le service public plus efficient. L’identification du problème passe également par un certain nombre d’interrogations supplémentaires. Quelle est la qualité actuelle de la coordination multiacteurs ? Quels sont les exemple de projets en retards 41 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Có rất nhiều công cụ điều phối: sự phối hợp và truy xuất nguồn gốc, hợp đồng, theo dõi, báo cáo và đánh giá. Điều hành đa chủ thể là nền tảng của chiến lược hiệu quả cho phát triển mạng lưới cấp, thoát nước. Chắc chắn đây là điều quan trọng hơn việc huy động các nguồn tài chính và hơn nữa nó có thể tiếp cận được ngay. Mặc dù có sự cạnh tranh trong đầu tư giữa các ngành, nhưng nếu càng có sự điều phối tốt và có hiệu quả giữa các định chế thì việc huy động tài chính càng dễ. Nhưng công tác điều hành không thể giải quyết mọi vấn đề. Bản thân công tác này được quyết định: - Về mặt xã hội, bởi hợp đồng xã hội hiện hành ở cấp quốc gia, hợp đồng này xác định chiến lược cung cấp dịch vụ; - Về mặt kỹ thuật, bởi mô hình mạng lưới (tập trung hay không tập trung). Nhận xét và trao đổi Bà Hoàng Thị Kim Chi: Bài trình bày này phù hợp với những vấn đề đang gặp phải tại TPHCM. Cụ thể, Sở Giao thông Vận tải quản lý công tác xây dựng đường giao thông và các hệ thống mạng lưới hạ tầng kỹ thuật mà không có sự phối hợp với các đơn vị về viễn thông, điện, nước,…. Công tác quản lý mạng lưới hạ tầng kỹ thuật bị phân tán và có nhiều đơn vị tham gia, nhưng không có sự phối hợp và thường có sự chồng chéo giữa các đơn vị. Nhiều khó khăn sẽ phát sinh khi xây dựng hệ thống tàu điện ngầm. Ủy ban Nhân dân Thành phố nhận thức được sự cần thiết phải phối hợp, điều phối các công trình ngầm và đã thành lập Trung tâm quản lý công trình ngầm. Nhưng hiện nay, Trung tâm này chưa hoạt động vì thiếu nguồn nhân lực. Hơn nữa, có rất nhiều luật và Nghị định về quản lý mạng, nhưng chưa có "hướng dẫn thực hiện" cụ thể để triển khai trên thực tế. Ông Miras: Các nước phương Tây không có giai đoạn phát triển tương tự như Việt Nam, nên không có mô hình nào để áp dụng ngay cho Việt Nam. Giải pháp duy nhất là phải sáng tạo, tìm ra mô hình riêng cho Việt Nam. Điều này rất khó khăn nhưng cũng đầy thú vị. 42 Ông Ifrassen: Ở Casablanca, một công ty có vốn của nhà nước, nhưng hoạt động theo luật tư pháp đã được thành lập để điều phối công tác xây dựng cơ sở hạ tầng, mạng lưới kỹ thuật và tàu điện mặt đất. Học viên: Trong bối cảnh của TPHCM, việc có nhiều tuyến giao thông công cộng là cần thiết. Nhưng Thành phố hiện nay chưa có đủ nguồn lực tài chính để xây dựng hệ thống này. Do đó việc phải mời gọi các nhà đầu tư, điều này dẫn đến sẽ có nhiều loại công nghệ và kỹ thuật khác nhau trong hệ thống. Làm thế nào để phối hợp tốt các bên liên quan? Ông Miras: Việc có nhiều nhà tài trợ/chủ thể khác nhau có thể dẫn đến sự không tương thích. Việc thiếu nguồn tài chính công làm tăng thêm khó khăn. Trong trường hợp này, Nhà nước nên tập trung nguồn tài chính vào các yếu tố chiến lược để duy trì quyền kiểm soát các công trình trên địa bàn. Học viên: Xin cho biết một số thông tin về Thành phố Casablanca (dân số, diện tích, GDP/đầu người, tổ chức thể chế và hành chính). Ông Miras: Vùng đô thị Casablanca có hơn 5 triệu người là 4800 USD/năm/người. Ở Casablanca, con số này cao hơn nhiều. (Nguồn : https://www.cia.gov/library/publications/theworld-factbook/geos/mo.html.) Học viên: TPHCM đang phải đối mặt với hai vần đề lớn: - Nguồn tài chính để phát triển mạng lưới cấp nước sạch và xử lý nước thải. - Nguồn nhân lực Ở Maroc, có các cơ chế huy động tài chính nào? Nhà vua ở Maroc quan tâm nhiều đến sự phát triển con người. Vậy, Maroc có chính sách gì để nâng cao năng lực của nhân viên làm việc trong lĩnh vực dịch vụ công để khỏi phải sử dụng tư vấn nước ngoài, vốn rất tốn kém? Ông Miras: Ở Maroc, ngoài nguồn ngân sách nhà nước, còn có 2 nguồn tài chính góp phần phát triển dịch vụ cấp nước và xử lý nước thải: ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT et leurs causes ? Quels sont aussi les exemples de projets qui marchent ? Les instruments de la coordination sont multiples : la concertation et sa traçabilité, le contrat, le suivi, le reporting et l’évaluation. La gouvernance multi-acteurs est la pierre angulaire d’une stratégie efficace de raccordement généralisée en eau et assainissement. Elle est sans doute plus essentielle que la mobilisation de ressources financières, plus immédiatement accessible. Même si les besoins de financement sectoriels sont en concurrence les uns avec les autres, les fonds sont d’autant plus mobilisables qu’ils vont évoluer dans un contexte institutionnel coordonné et performant. Attention, la gouvernance ne résout pas tout. Elle est elle-même déterminée : - socialement, par le contrat social en vigueur au niveau national qui définit la stratégie d’offres de services ; - et techniquement, par le modèle, centralisé ou non, des réseaux. Remarques et échanges Mme Kim Chi signale que la présentation correspond bien aux problématiques rencontrées à HCMV. Concrètement, le Département des Transports et des Communications (DTC) gère la construction de voiries et réseaux divers (VRD) sans coordination avec les différents services techniques. Télécommunication, électricité, eau… la gestion des VRD est segmentée et prise en charge par différentes structures dont les interventions ne sont pas coordonnées et se chevauchent. Des difficultés supplémentaires vont apparaître avec construction du métro. Le Comité Populaire de la ville prend en considération cette nécessité de coordination des ouvrages souterrains en créant une structure spécifique, qui ne fonctionne pas, faute de personnel disponible. Par ailleurs, les lois et décrets sur la gestion des réseaux sont nombreux mais il n’existe pas de « guide d’application » pour les mettre en œuvre sur le terrain. M. de Miras précise qu’il n’existe pas de référence historique en la matière car les pays occidentaux n’ont pas connu un développement comparable. La La seule réponse est l’innovation, ce qui est très difficile mais également stimulant. M. Ifrassen explique qu’une société de droit privé a été créée à Casablanca avec des fonds publics. L’Etat est actionnaire et coordonne la construction des VRD et du tramway. Mme Hoa de l’HIDS mentionne que plusieurs lignes de transports en commun sont nécessaires dans un contexte tel que HCMV. Or, la ville ne dispose pas de moyens financiers nécessaires à la construction de ce réseau, d’où le recours à différents investisseurs qui entraîne ainsi la juxtaposition de différentes technologies. Dès lors, comment coordonner l’ensemble des intervenants ? M. de Miras note que la multiplicité des bailleurs/ acteurs génère des déséconomies. L’absence d’un financement public homogène ajoute de la difficulté. Dans ce cas, il semble important que l’Etat concentre les fonds et les redistribue stratégiquement afin de garder la maîtrise des interventions sur son territoire. Un participant souhaite obtenir des informations sur le contexte de la ville de Casablanca (population, superficie, PIB/habitant, organisation institutionnelle et administrative du Grand Casablanca). M. de Miras mentionne que le Grand Casa accueille 5 millions d’habitants, le PIB par tête (à parité de pouvoir d’achat) au Maroc est estimé à 4 800 dollars en 2010 par an et par personne, celui-ci est sûrement supérieur dans la région du Grand Casa. (Source : https://www.cia.gov/library/publications/theworld-factbook/geos/mo.html.) Un participant souligne qu’HCMV fait face à deux grands problèmes que sont : - le financement du développement de réseau d’eau potable et d’assainissement, - les ressources humaines. Quels sont les mécanismes de mobilisation de financement au Maroc ? Au Maroc, le Roi insiste sur le développement humain. Existe t-il une politique de développement des compétences au sein des services publics afin de limiter le recours onéreux aux bureaux d’études étrangers ? M. de Miras précise qu’au Maroc il existe, en dehors des financements publics, deux types d’apport financier qui contribuent à la délégation du service d’approvisionnement en eau et d’assainissement qui sont : 43 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI - Vốn ODA, - Sự tham gia đầu tư của khu vực tư nhân. Ở Maroc, chính quyền vẫn cung cấp dịch vụ, chỉ có 50 % lượng nước là do các nhà đầu tư tư nhân cung cấp. Hơn nữa, Maroc có 13 công ty quốc doanh thực hiện dịch vụ cấp nước. Cơ quan nước quốc gia thiết lập mối quan hệ đối tác công-tư với các thành phố nhỏ. Một số hướng cho Việt Nam: - Giảm thất thoát nước, - Phương thức bù chéo giữa các ngành (ở Maroc, ngành điện bù cho ngành thoát nước và xử lý nước thải), - Thuế trên giá trị tăng thêm của bất động sản do mạng lưới cấp nước được xây dựng ở khu vực đó. Ở Maroc, một kế hoạch chiến lược đào tạo đã được khởi xướng để nâng cao trình độ chuyên môn của nhân viên trong mọi lĩnh vực kỹ thuật phục vụ cho quá trình phát triển. Bà Jamme: Hỏi về sự cân bằng giữa các chủ thể: có thể tiến hành công tác điều phối, quản trị mà không có sự hỗ trợ về mặt chính trị không? Nếu công tác điều phối không có sự hỗ trợ về mặt chính trị, thì các chủ thể, các ngành có bị phân tán không? Ông Miras: Hợp đồng xã hội là yếu tố rất quan trọng trong khái niệm quản trị, điều hành. Dĩ nhiên, cần có cơ quan thẩm quyền cấp cao làm trọng tài. Mặc dù vậy, nhưng quan niệm về việc quản trị theo hướng từ trên xuống đã chấm dứt. Hoạt động của một đô thị cho thấy các thách thức chính xuất phát từ những khó khăn gặp phải trong thực tế. Từ ngữ thì vẫn như nhau, nhưng nội hàm đã khác đi. Sự tham gia của các nhà lãnh đạo là cần thiết vì đó là cấp cao nhất có thể quyết định hành động. Tuy nhiên, cần có sự thảo luận, tham vấn nhiều chủ thể khác. Việc chỉ trong chờ vào cấp lãnh đạo là cách tiếp cận khá ngây thơ và đôi khi còn có tác dụng ngược. Dĩ nhiên, cấp lãnh đạo là không thể thiếu, nhưng cần có thêm sự phối hợp với các chủ thể khác để tránh việc chỉ cấp lãnh đạo phải đối mặt với các khó khăn và thách thức phức tạp. Công tác nghiên cứu ứng dụng sẽ giúp làm rõ cơ chế này. Ở Việt Nam, sau khi đi thực tế, chúng ta thấy rõ nhu cầu cần được thông tin và cần có cơ chế quản lý, điều tiết các đơn vị cấp nước nhỏ. Việc đánh giá những tiến bộ và hạn chế trong cách vận hành hiện nay là cần thiết nhằm làm rõ các thách thức và những việc cần thực hiện trong trong tương lai. ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT - l’aide publique au développement, - la participation du secteur privé. Au Maroc, l’autorité publique régulatrice garde un certain contrôle ; 50 % de l’eau est distribuée par des opérateurs privés. Par ailleurs, il existe treize régies publiques et l’Office National de l’Eau Potable qui développe des partenariats public-public avec des petites villes. Une réflexion, dont voici quelques pistes, sur les nouvelles ressources mobilisables semble pertinente au Vietnam : - réduction des pertes en eau, - modalités de financement croisé (le domaine de l’électricité au Maroc compense les déficits dans le domaine de l’assainissement), il s’agit de réaliser des péréquations intersectorielles, - prélèvements fiscaux à partir des plus-values foncières et immobilières créées avec l’arrivée des réseaux d’eau. Au Maroc, un plan stratégique de formation a été lancé afin de tenter une mise à niveau générale des compétences du personnel dans tous les domaines de l’ingénierie dans le but d’accompagner ces changements. Melle Jamme s’interroge sur la pondération entre les différents acteurs : est-il envisageable de fédérer une gouvernance sans un appui fort du politique ? Eston condamné à voir les secteurs s’éparpiller et se 44 disloquer faute de coordination sans implication forte du politique ? M. de Miras répond qu’effectivement, il s’agit d’une problématique qui surplombe la notion de la gouvernance : le contrat social. La gouvernance constitue la mise en œuvre d’une stratégie qui s’inspire du contrat social. Il est indispensable d’avoir une autorité supérieure capable d’arbitrer. Malgré cela, la vision d’une gouvernance normative par le haut est terminée. Le fonctionnement de la ville montre que les principaux enjeux forts remontent des difficultés rencontrées sur le terrain. Le mot est resté le même mais la notion est tout à fait différente. Le politique est indispensable oui, car il s’agit du dernier ressort qui peut dominer l’action. Par ailleurs, il apparaît essentiel que la réflexion soit collective. Faire appel au politique seul serait non seulement une réponse naïve, mais également un contresens. Oui, il s’agit d’un acteur indispensable et clé mais qui doit associer ses forces à tous les acteurs en présence pour ne pas se retrouver seul face aux difficultés et à la complexité des enjeux. La contribution de la recherche appliquée prend alors toute sa place en aidant à mettre en exergue certains mécanismes. Au Vietnam, un besoin de régulation et d’information se fait ressentir chez les petits opérateurs comme l’a montré la visite de terrain. Il s’agit typiquement de problématiques intéressantes à évaluer en rassemblant des données afin de comprendre les avancées et les limites de certains fonctionnements. La recherche aide ainsi à révéler et clarifier les enjeux et les chantiers identifiés. 45 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT PHẦN 2 - CÔNG TÁC QUẢN LÝ DỊCH VỤ VỀ NƯỚC VÀ VỆ SINH MÔI TRƯỜNG: VÍ DỤ CỦA CASABLANCA VÀ HAI DỰ ÁN TẠI TPHCM PARTIE 2 – LA GESTION DES SERVICES D’EAU ET D’ASSAINISSEMENT : L’EXEMPLE DE CASABLANCA ET DE DEUX PROJETS À HCMV Phần trình bày các nghiên cứu trường hợp sau đây nhằm so sánh kinh nghiệm ở Maroc và Việt Nam. Những trao đổi sau đó làm nổi bật lên rất nhiều vấn đề cụ thể cần suy nghĩ về dịch vụ cấp nước và xử lý nước thải. I. Công ty Idmaj-Sakan, một doanh nghiệp chuyên về cải tạo các khu nhà lụp xụp ở Casablanca (Ông Ifrassen, công ty Idmaj-Sokan) Maroc có diện tích 446.550 km2 và có 31 triệu dân với mật độ 83,14 người/km2. La présentation des études de cas suivants permet de mettre en perspective deux expériences comparables que sont celles du Maroc et du Vietnam. Les échanges qui en découlent soulèvent ainsi une série de problématiques et d’interrogations concrètes afin de faire avancer les réflexions sur la thématique du service de distribution d’eau et de l’assainissement. I. La société Idmaj-Sakan, une entité dédiée à la lutte contre l’habitat insalubre à Casablanca (M. Ifrassen, société Idmaj-Sakan) Vùng đô thị Casablanca có diện tích 1.615 km2, bao gồm mười bảy thành phố với dân số gần 4 triệu người. Casablanca là thành phố đầu tàu trong vùng và chiếm 90% dân số của Vùng đô thị Casablanca. Ông Ifrassen bắt đầu trình bày bằng nhận định: Thành phố Hồ Chí Minh đang đối mặt với các vấn đề về đô thị giống như Casablanca: giao thông, mạng lưới hạ tầng kỹ thuật đô thị, nhà ở…. Maroc đại diện cho hình ảnh một nước Châu Âu ở Châu Phi. Với ngành công nghiệp thu hút một lượng lớn lao động nhập cư từ các vùng nông thôn nên Casablanca đang chịu áp lực lớn về dân số. Năm 2005, trong vùng đô thị Casablanca, có hơn 98.000 hộ phải sống trong các khu nhà lụp xụp. Chính sách "Thành phố không có khu nhà lụp xụp" đã bắt đầu từ những năm 2000. Chính phủ đề ra Le Maroc recouvre 446 550 km² et compte plus de 31 millions d’habitants pour une densité de 83,14 hab./km². Le Grand Casablanca s’étend sur 1 615 km². Il regroupe dixsept communes regroupant une population de près de 4 millions de personnes. La capitale économique Casablanca regroupe près de 90 % de la population du Grand Casablanca. chính sách này để xóa bỏ tất cả các khu nhà lụp xụp ở Maroc . "Sáng kiến quốc gia vì phát triển con người" nhằm mục đích cải thiện điều kiện sống của dân cư và tạo việc làm cho người có thu nhập thấp thông qua các dự án do các tổ chức xã hội dân sự, các tổ chức phi chính phủ, các hội đoàn thực hiện ... và ngoài những dự án của chính phủ. Công ty Idmaj-Sokan tập trung vào việc xoá bỏ khu nhà lụp xụp, còn Công ty Lydec tập trung cải tạo các khu dân cư tự phát. M. Ifrassen débute sa présentation en constatant que la ville d’HCM rencontre les mêmes problèmes urbains que Casablanca, en termes de circulation, de réseaux urbains, d’habitat, etc. Pour donner une image, le Maroc représente l’Europe de l’Afrique. Avec une industrie qui attire toujours plus de main d’œuvre encourageant un exode rural déjà fort, la capitale économique Casablanca connaît une pression démographique importante. En 2005, dans la région du Grand Casablanca, plus de 98 000 familles habitaient dans des bidonvilles. La politique de la « Ville Sans Bidonville » a démarré à partir des années 2000. Il s’agit d’une politique 46 gouvernementale mise en place afin d’éradiquer tous les bidonvilles du Maroc. L’Initiative Nationale pour le Développement Humain vise à améliorer les conditions de vie de la population et à créer de l’emploi pour les populations à faibles revenus notamment par le biais de projets portés par la société civile, les organisations non gouvernementales, les associations… hors des projets gouvernementaux. L’intervention de la société Idmaj-Sakan se concentre sur l’éradication des bidonvilles exclusivement, la résorption de l’habitat non règlementaire correspondant à un autre volet de l’action du programme INDH porté par Lydec. 47 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Ở Maroc, có các công ty nhà nước thực hiện việc xóa bỏ khu nhà lụp xụp ở cấp quốc gia. Nhưng với đặc trưng của Casablanca, các chủ thể tại địa phương đã cùng nhau lập ra một công ty hoạt động trên địa bàn Casablanca. Hội đồng quản trị công ty Idmaj-Sokan gồm đại diện của các cơ quan nhà nước và các chủ thể tư nhân, trong đó có công ty Lydec, đơn vị quản lý mạng lưới cấp nước, xử lý nước thải, điện và chiếu sáng công cộng. 1. Trình bày của công ty Idmaj-Sakan và chương trình giải tỏa các khu nhà lụp xụp ở vùng đô thị Casablanca Các khu nhà lụp xụp ở Maroc là một trở ngại lớn cho việc phát triển. Đến nay, hàng trăm hộ gia đình vẫn sống trong điều kiện rất mất vệ sinh. Trong bối cảnh chung phát triển xã hội và kinh tế, các nhà lãnh đạo đã quyết định hành động nhằm xóa bỏ hiện tượng này. Thành phố Casablanca là nơi tập trung nhiều khu nhà lụp xụp nhất ở Maroc, do đó được quan tâm đặc biệt. Trong khuôn khổ chương trình INDH, Công ty IdmajSokan đã được thành lập và chuyên về xóa các khu nhà lụp xụp, hỗ trợ xã hội cho những hộ gia đình gặp khó khăn, cũng như hỗ trợ và giám sát việc triển khai dự án của các đơn vị nhà nước và tư nhân, hỗ trợ cho các chủ sở hữu bị thu hồi đất. Công ty Idmaj-Sakan, với 14 nhân viên, là một công ty cổ phần, hoạt động theo luật tư pháp với địa bàn hoạt động là Vùng đô thị Casablanca. Phần vốn nhà nước trong công ty Idmaj-Sakan là 20 triệu dirham Maroc. Chương trình này ước tính khoảng 12 tỷ dirham (1,2 tỷ USD) và được thực hiện trong vòng sáu năm 20072012. Nguồn vốn cho chương trình này như sau: - Chính phủ đóng góp 3 tỷ dirham (300 triệu USD) thông qua việc tạo ra một quỹ gọi là "Quỹ xi măng" (1% doanh số bán xi măng phải nộp vào quỹ này). Quỹ sẽ phân bổ số tiền này cho các đơn vị nhà nước nhằm xóa bỏ các khu nhà lụp xụp. Ngoài ra, nhà nước còn bán đất với giá hợp lý cho công ty Idmaj-Sakan để xây dựng nhà ở; - Đóng góp của người thụ hưởng: 5 tỷ dirham (500 triệu USD); - Đóng góp của chính quyền địa phương và các nhà đầu tư bất động sản: 4 tỷ dirham (400 triệu USD). Theo kết quả khảo sát trước khi thực hiện dự án, có 98.000 hộ gia đình sống trong các khu nhà lụp xụp trong năm 2007, tương đương với 500.000 người. Số hộ dân này sống trong 480 cụm nhà lụp xụp, một số cụm có hơn 5.000 hộ. Các khu nhà lụp xụp ở Casablanca ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Il est à noter qu’il existe déjà des sociétés publiques travaillant à la résorption des bidonvilles au niveau national. Mais au vu de la spécificité de Casablanca, les acteurs locaux ont poussé à la création d’une structure locale spécifique, dédiée au secteur géographique de Casablanca. Son conseil d’administration réunit tous les acteurs publics et privés, y compris Lydec, le concessionnaire public des réseaux de services d’eau, d’assainissement, d’électricité et d’éclairage public. 1. Présentation de la société Idmaj-Sakan et du programme de résorption des bidonvilles dans la région du Grand Casablanca L’habitat insalubre au Maroc constitue un frein majeur au développement. A ce jour, plusieurs centaines de ménages vivent encore dans des conditions d’insalubrité extrême. C’est dans un contexte général d’aide au développement social et économique que les décideurs ont mené une action pour éradiquer ce fléau. La ville de Casablanca constituant le point de concentration de l’habitat insalubre et des premières poches de bidonvilles au Maroc, bénéficie d’une attention particulière. Dans le cadre de l’INDH, la réflexion générale a conduit à créer une entité dédiée (Société Idmaj-Sakan) à la lutte contre l’habitat insalubre et à l’accompagnement social des ménages concernés, ainsi qu’au soutien et au suivi des opérations de résorption initiées par les promoteurs publics et privés et à l’accompagnement des propriétaires fonciers pour que leurs terrains soient libérés des bidonvilles. La Société Idmaj-Sakan est une société anonyme de droit privé qui opère dans la Région du Grand Casablanca ; le capital public est de 20 millions de Dirhams marocains, avec un effectif de quatorze agents. Le programme s’élève à près de 12 milliards de dirhams (soit 1,2 milliards de dollars) et doit se réaliser dans un délai de six ans, sur la période 2007-2012. Il est financé comme suit : - contribution de l’Etat de 3 milliards de dirhams (soit 300 millions de dollars) grâce à la création d’un fonds appelé « taxe de ciment » qui s’élève à 1 % de taxe sur le ciment vendu, ensuite attribué aux opérateurs publics luttant contre les bidonvilles. Par ailleurs, l’Etat met à disposition à la société Idmaj-Sakan des terrains à prix raisonnables pour la construction de logements ; - contribution des bénéficiaires : 5 milliards de dirhams (500 millions de dollars) ; - contribution des collectivités locales et de la promotion immobilière : 4 milliards de dirhams (400 millions de dollars). Le diagnostic préalable à la mise en place du projet fait état de 98 000 ménages logeant dans des bidonvilles en 2007 soient 500 000 habitants répartis sur 480 poches de bidonvilles. Certaines poches de bidonville dépassent les 5 000 ménages. Bidonvilles à Casablanca Giải tỏa các khu nhà lụp xụp / Démolition de bidonvilles à Casablanca 48 49 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Với mật độ dân cư như trên, việc phá bỏ những khu nhà lụp xụp được thực hiện bằng tay hoặc bằng máy móc chuyên dụng. Các khu dân cư lụp xụp này thường được xây dựng trái phép trên các khu đất đã có chủ sở hữu. Do đó, khi tiến hành giải tỏa, Thành phố ký thỏa thuận với các chủ sở hữu. Theo đó, chủ sở hữu cam kết tái định cư cho những người chiếm đất, đổi lại, họ được phép xây dựng cao tầng trên khu đất của mình, do đó giá trị đất của họ được tăng lên. 2. Cách thức can thiệp hiện thông qua quan hệ đối tác giữa công ty Lydec và công ty Idmaj-Sakan. Công ty Lydec, đơn vị quản lý mạng lưới cấp nước, xử lý nước thải và cấp điện, chịu trách nhiệm xây dựng mạng lưới: - Xử lý nước thải, - Cấp điện, - Cấp nước, Người thụ hưởng đóng góp một phần kinh phí. Công ty Idmaj-Sakan thực hiện các công trình: Ba cách thức can thiệp nhằm xóa bỏ các khu nhà lụp xụp: a) Cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng - Đường giao thông, Hệ thống chiếu sáng, Quy hoạch vỉa hè và không gian xanh. Kinh phí cho các công việc này lấy từ ngân sách nhà nước. Việc cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng được thực ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Au vu de la densité des bidonvilles, leur destruction se fait soit manuellement soit par engins. Très souvent, les propriétaires fonciers ont vu leurs terrains envahis par les bidonvilles. La ville conclut alors un marché avec ces propriétaires ; ils s’engagent à reloger les habitants qui occupent leur terrain contre une autorisation délivrée par la ville leur permettant de construire plus d’étages que le règlement ne le prévoit afin qu’ils puissent réaliser une plus-value immobilière. 2. Modes d’intervention Trois modes d’intervention permettent d’enrailler l’existence des bidonvilles. a) Restructuration et mise à niveau urbaine Ce premier mode d’intervention est réalisé sur place et fait appel à un partenariat entre la société Lydec et la société Idmaj-Sakan. D’un côté la société Lydec, concessionnaire du réseau d’assainissement, d’eau potable et d’électrification réalise : - l’assainissement, - l’électricité, - l’adduction en eau potable. Les travaux sont pris en charge en partie par les bénéficiaires. Et de l’autre côté, la société Idmaj-Sakan réalise : - la voirie, l’éclairage public, l’aménagement des abords et des espaces verts, les travaux sont pris en charge par la subvention de l’Etat. Vài ví dụ về nâng cấp, cải tạo cơ sở hạ tầng: Quelques exemples de restructuration : Dự án Sidi Moumen Lakdim / Projet Sidi Moumen Lakdim Projet Sidi Moumen Lakdim / Dự án Sidi Moumen Lakdim Trước Sau Nhờ việc cải tạo cơ sở hạ tầng, nên sau đó, người dân dần dần cải tạo nhà ở của mình. Grâce à la mise en œuvre du projet, le processus de renouvellement urbain se prolonge de lui-même avec une amélioration du bâti au fil du temps. 50 51 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI b)Tái định cư bằng nền đất, hai hộ một nền (tự xây dựng nhà ở) Việc tái định cư cho các hộ bị giải tỏa được thực hiện trên các lô đất (mỗi lô 80 m2 và được xây 3 tầng) đã có cơ sở hạ tầng. Mỗi lô đất dùng để tái định cư cho ba hộ. Khu tái định cư được trang bị đầy đủ: mạng lưới cấp nước, đường giao thông, điện và hệ thống chiếu sáng công cộng. Các hộ tái định cư tự xây dựng nhà ở và cam kết không bán lại tài sản trong vòng năm năm sau khi được tái định cư. Các tổ chức phi chính phủ, hội đoàn, các đơn vị tư vấn… hỗ trợ miễn phí cho các hộ tái định cư về nhiều mặt: - Xã hội: tuyên truyền cho người dân hiểu các mục tiêu của chương trình - Kỹ thuật: tư vấn thiết kế kiến trúc, xây dựng - Theo dõi, giám sát thi công - Tài chính: giúp tiếp cận tín dụng "FOGARIM" Nhà nước bảo lãnh các khoản tín dụng cho người dân tự xây nhà. Tự xây dựng trong khu tái định cư "Madinat Errahma" Auto-construction au sein de l’opération « Madinat Errahma » ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT b) Recasement dans des lots bi-familiaux (auto-construction) Le système de recasement des familles expulsées des bidonvilles se fait sur des lots de terrain équipés de 80 m² en R+3. Ces terrains accueillent trois foyers et sont équipés en réseaux d’assainissement, de voirie, d’adduction d’eau potable, d’électrification et d’éclairage public ; l’auto-construction est réalisée par les ménages des bidonvilles. Pendant les cinq ans qui suivent la construction, les familles ne peuvent pas vendre le bien. Un accompagnement gratuit (ONG, associations, bureau d’études…) est assuré sur différents plans : - social (sensibilisation de la population sur les objectifs du programme) ; - technique : études architecturales et de béton armé ; - suivi de l’auto-construction par des architectes et des bureaux d’études techniques ; - financier : aider à l’obtention de crédit « FOGARIM ». Une garantie par l’Etat est assurée afin de financer l’auto-construction. Khu tái định cư "Madinat Errahma" / Lot équipé dans l’opération « Madinat Errahma » Les foyers peuvent aller vivre ailleurs et louer leur maison réalisée en auto-construction en location afin de rembourser le crédit. Ils peuvent également se mettre d’accord pour créer un commerce, source de revenu financier. La société Idmaj-Sakan équipe ces zones en infrastructures mais également en construction de superstructure. (Principe de la ZAC avec récupération de la plus-value pour la construction d’équipements.) Accompagnement par la réalisation d’équipements publics Các gia đình có thể chuyển đi nơi khác sống vàcho thuê căn hộ mà họ tự xây dựng nhằm có thu nhập để trả nợ tín dụng hoặc họ có thể liên kết với nhau để mở cửa hàng kinh doanh nhằm kiếm thêm thu nhập. Công ty Idmaj- Sakan xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội cho các khu tái định cư (giá trị gia tăng của đất được thu hồi để đầu tư cho cơ sở hạ tầng). Hỗ trợ thông qua xây dựng cơ sở hạ tầng công Cette solution innovante à Casablanca est en train d’être reprise et appliquée par d’autres villes au Maroc. Mô hình này ở Casablanca đang được nhân rộng trên các thành phố khác ở Maroc. 52 53 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI c)Tái định cư trong chung cư Các căn hộ tái định cư có diện tích 60 m2 gồm 2 phòng, 1 nhà bếp, 1 nhà tắm và 1 phòng khách. Giải pháp này có vẻ tốn kém hơn nhưng là một giải pháp thay thế, mang tính chất "chìa khóa trao tay". Trong trường hợp này, người nhận căn hộ tái định cư không được bán căn hộ trong 5 năm sau khi mua. Giá bán của căn hộ cho người tái định cư là 100.000 dirham (10.000 đô la cho mỗi căn hộ). Việc hỗ trợ tài chính được triển khai thông qua tín dụng "FOGARIM" do nhà nước bảo lãnh, với mức 75 USD/tháng trong vòng 12 năm. Hỗ trợ xã hội cũng được thực hiện khi có chuyển nhượng bất động sản. ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT c) Relogement dans des appartements Les appartements destinés aux habitants des bidonvilles délocalisés ont une superficie de 60 m² et sont composés de deux pièces, d’une cuisine, d’une salle de bain et d’un salon. Cette solution est plus coûteuse mais constitue une alternative « clé en main ». Dans ce cas également, le logement ne peut être revendu dans le cinq années suivant l’acquisition. Le prix de cession de l’appartement est de 100 000 dirhams par ménage (soit 10 000 de dollars par appartements). Un accompagnement financier est assuré via l’aide à l’obtention du crédit « FOGARIM » garanti par l’État. Celui-ci s’élève à 75 dollars par mois sur douze ans. Un accompagnement social est également prévu lors du transfert du bien immobilier. Dự án tái định cư "Idmaj", căn hộ 60 m2 Projet de relogement « Idmaj» d’appartement de 60 m² Việc bố trí căn hộ cho các hộ dân được thực hiện theo hình thức bốc thăm. Người lớn tuổi và khuyết tật thì được việc bố trí căn hộ nằm ở tầng trệt. Hình thức Projet « Lakrimat » / Dự án "Lakrimat" bốc thăm nhằm đảm bảo công bằng cho các hộ dân. Nó diễn ra với sự có mặt của các hội đoàn trong khu phố (đại diện khu dân cư), tổ chức phi chính phủ,… Dự án "Alboustane"/ Projet « Alboustane » L’attribution des logements se fait par tirage au sort, sauf pour les personnes âgées et handicapées dont l’occupation d’un logement fonctionnel en rez-dechaussée est nécessaire. Le tirage au sort permet 54 de ne pas créer de tensions entre les habitants. Il a lieu en présence des associations de quartiers (représentants de la population), des ONG, etc … 55 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI 3. Tiến độ đến tháng 9 năm 2010 Sau bốn năm, chương trình xóa bỏ khu nhà lụp xụp ở vùng đô thị Casablanca đã được thực hiện như sau: - 44.000 hộ gia đình đã được tái định cư, - 19.000 hộ đang được tái định cư, - Đang nghiên cứu tái định cư cho 35.000 hộ. Dự kiến chương trình sẽ hoàn thành vào cuối tháng 12 năm 2012. Một số vấn đề vẫn còn tồn tại và làm chậm tiến độ chương trình. Thiếu quỹ đất công là nguyên nhân chính dẫn đến khó khăn vì phần lớn những hộ gia đình sinh sống trong khu nhà lụp xụp mong muốn được cấp đất nền để họ có thể tự xây dựng nhà riêng thay vì được tái định cư trong chung cư. Ngoài ra, có sự khác biệt giữa số người đăng ký lúc đầu và sau khi dự án kết thúc, điều đó có nghĩa là các hộ đã khai báo số nhân khẩu nhiều hơn số thực tế để được tái định cư trong căn hộ rộng hơn. Một cuộc khảo sát do Cơ quan Phát triển Xã hội (thuộc nhà nước) thực hiện đã cho thấy điều kiện sống của các hộ tái định cư thực sự đã được cải thiện. Tội phạm, trẻ em bỏ học và bệnh tật đã giảm ở các khu vực được nâng cấp. Ngoài ra, nhiều cửa hàng được mở ở tầng trệt, góp phần tạo việc làm cho các hộ dân. Nhận xét và trao đổi Bà Hoàng Thị Kim Chi: Những hộ nào được tái định cư bằng nền đất 80 m2 và ai quản lý mạng lưới cơ sở hạ tầng? Ông Ifrassen: Đối với hình thức tái định cư bằng nền đất cho hai hộ gia đình, thì bước đầu tiên là chọn hai hộ gia đình. Việc lựa chọn dựa trên cơ sở tự nguyện. Mỗi hộ sẽ được cấp giấy chứng nhận sở hữu tài sản. Căn nhà sẽ được xây dựng với 4 tầng, mỗi hộ sở hữu 2 tầng và có thể cho thuê 1 tầng. Mạng lưới hạ tầng kỹ thuật có thể do Thành phố quản lý (ví dụ mạng lưới điện) hoặc do các công ty tư nhân như Lydec quản lý, hoặc do một số công ty mà thành phố đã ký hợp đồng quản lý, ví dụ quản lý việc thu gom rác. ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Học Viên: Tiêu chí phân bổ tài chính cho các chủ thể hoạt động trong lĩnh vực tái định cư? Những người tái định cư chủ yếu sống bằng nghề gì và được tái định cư ở khu vực nào trong thành phố? Tác động của tái định cư đến công ăn việc làm như thế nào? Ở Việt Nam, đây là yếu tố quan trọng cần xem xét vì thông thường người thu nhập thấp sống nhờ vào các hoạt động buôn bán tại trung tâm thành phố. Do đó, họ sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì hoạt động buôn bán khi phải tái định cư ở vùng ven. 3. Etat d’avancement en septembre 2010 Khi giá đất tăng lên, các chủ sở hữu phải đóng bao nhiêu % cho nhà nước? L’achèvement total du programme est prévu pour la fin décembre 2012. Chi phí xây dựng một căn hộ tái định cư là bao nhiêu? Phần hỗ trợ của nhà nước là bao nhiêu khi người dân chỉ phải trả 10.000 USD? Certains problèmes persistent et ralentissent l’opération d’éradication des bidonvilles. Le manque de foncier appartenant au public entraîne beaucoup de difficultés dans la mesure où une grande partie des ménages vivant dans les bidonvilles préfèrent bénéficier d’un recasement dans des lots afin de reconstruire eux-mêmes leur habitation, plutôt que la solution des appartements de relogement. Par ailleurs, il a été constaté une différence du nombre de personnes enregistrées au recensement de début et de fin d’opération signifiant que des ménages déclarent plus de personnes afin de bénéficier d’un plus grand logement. Ông Ifrassen: Phần hỗ trợ của nhà nước lấy từ “Quỹ xi măng”. Nhờ Quỹ này, nhà nước hỗ trợ 4.000 USD cho mỗi căn hộ và 2.000 USD mỗi hộ gia đình trong trường hợp tái định cư theo hình thức 2 hộ/nền đất. Như vậy, Nhà nước tài trợ cho chương trình tổng cộng là 300 triệu USD. Khi công ty Idmaj – Sakan tiến hành giải tỏa và tái định cư cho các hộ chiếm đất bất hợp pháp của một chủ sở hữu, thì chủ sở hữu đó phải đóng góp tài chính cho Công ty với mức từ 4.000 USD đến 10.000 USD cho mỗi hộ di dời. Ở Maroc, người dân tại các khu nhà lụp xụp được ưu tiên tái định cư tại chỗ trong các chung cư, nếu có thể được. Trong trường hợp phải di dời đi nơi khác, các hộ dân chấp nhận đi xa hơn vì họ sẽ trở thành chủ sở hữu đất tại nơi ở mới. Học Viên: Quỹ xi măng được hình thành từ khi nào? Xi măng được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, vậy mức thuế có khác nhau không? Ông Ifrassen: Quỹ xi măng được hình thành vào năm 2004, cùng lúc với việc triển khai chương trình xóa bỏ các khu nhà lụp xụp. Mức thuế suất là như nhau đối với mọi mục đích sử dụng xi măng. Trên cả nước Maroc, một năm, Quỹ này thu được 140.000.000 USD. Après quatre années, le programme de résorption des bidonvilles au niveau de la Région du Grand Casablanca se présente comme suit : - 44 000 ménages relogés, - 19 000 ménages en cours de relogement, - des études en cours portent sur le relogement de 35 000 ménages. Une enquête a été menée par l’Agence de Développent Social (agence publique) sur les ménages transférés et a révélé que l’amélioration du cadre de vie de la population est effective. La criminalité, la déperdition scolaire des enfants et les maladies ont diminué au sein des quartiers réhabilités. Par ailleurs, de nombreux commerces ont vu le jour dans les rez-dechaussée, créant ainsi de l’emploi. Remarques et échanges Mme Kim Chi souhaite savoir quel est le statut des familles que les parcelles de 80 m² accueillent et qui gère les réseaux d’infrastructures. M. Ifrassen répond que dans le cadre d’un recasement sur un lot bi-familial, la première étape est celle du choix du binôme. Ce choix est laissé aux ménages qui s’accordent entre eux. Au sein de l’immeuble, chaque niveau possède un titre de propriété. Sur les quatre étages, les familles possèdent donc deux étages chacune et peuvent louer un étage chacun. Les réseaux sont gérés par la ville en propre (cas de l’électricité) ou en différé par des concessionnaires comme Lydec, ou par des sociétés avec lesquelles la ville passe des contrats pour le ramassage des ordures ménagères par exemple. 56 Un participant s’interroge sur la base et les critères de répartition financière qui existent entre les acteurs du relogement. Par ailleurs, il souhaiterait savoir quel type de métier exercent les personnes relogées et dans quel secteur de la ville. Quel est l’impact du relogement sur les activités des relogés ? Au Vietnam, il s’agit d’un élément très important à prendre en compte car souvent les personnes à bas revenus survivent grâce aux différentes activités de commerce exercées dans le centre ville. Il est donc difficile pour ces foyers de maintenir leur activité lorsqu’ils sont relogés en périphérie de la ville. Une fois le terrain valorisé, à quelle hauteur les propriétaires participent-ils à la taxe sur la plusvalue ? Quel est le coût de construction des appartements et quelle est la subvention des autorités quand les habitants ne paient que 10 000 dollars ? M. Ifrassen revient sur la répartition globale du programme en indiquant que la contribution de l’Etat se fait essentiellement grâce à la création d’un fonds appelé « taxe ciment ». Ce fonds permet à l’Etat de participer à hauteur de 4 000 dollars par appartement et 2 000 dollars par ménage en ce qui concerne les lots bi-familiaux. L’Etat finance donc le programme à hauteur de 300 millions de dollars. Lorsque la société Idmaj-Sakan reloge les habitants d’un bidonville pour le compte d’un propriétaire, la participation du propriétaire foncier en question, s’élève à un montant compris entre 4 000 et 10 000 dollars par ménage à reloger. Au Maroc aussi, le problème de transfert des populations se pose. Les habitants des bidonvilles sont relogés de préférence dans leur quartier d’origine pour les appartements lorsque cela est possible. Dans le cas d’une compensation par un terrain, le plus souvent, les ménages acceptent d’aller vivre plus loin puisqu’ils deviennent propriétaires terriens. Un participant souhaiterait savoir depuis quand le fonds sur la taxe ciment existe. Le ciment peut-être utilisé pour plusieurs usages, le taux de la taxe est-il variable selon les usages ? M. Ifrassen répond que cette taxe est entrée en vigueur en 2004, en même temps que le démarrage du programme d’éradication des bidonvilles. La participation de tous les citoyens se fait à un taux fixe quels que soient les usages. La taxe s’élève à 140 000 000 de dollars par an sur l’ensemble du Maroc. 57 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Học Viên: Nếu người tái định cư bán lại căn hộ, mặc dù điều đó không được phép thực hiện trong vòng 5 năm, thì sẽ xử lý như thế nào? TPHCM cũng có quy đinh tương tự, nhưng người tái định cư vẫn bán lại căn hộ. Ông Ifrassen: Casablanca cũng gặp khó khăn tương tự như TPHCM. Để giải quyết tình trạng này, một cơ sở dữ liệu trên quy mô cả nước được hình thành để thống kê tất cả các hộ được hưởng chương trình tái định cư (dù được tái định cư bằng nền đất hay căn hộ). Nếu sau đó, hộ gia đình này lại được ghi nhận ở một khu nhà lụp xụp khác, thì hộ đó sẽ không được hưởng trợ giúp của nhà nước nữa. Học Viên: Công tác theo dõi, giám sát tái định cư được tổ chức như thế nào để tránh việc biển thủ công quỹ? Ông Ifrassen: Công ty Idmaj-Sakan chịu trách nhiệm giám sát tài chính trong chương trình này. Mỗi dự án đều có Ủy ban theo dõi, giám sát gồm các vị đại biểu dân cử và đại diện các hội đoàn tại địa phương chịu trách nhiệm giám sát thường trực tiến độ tái định cư các hộ gia đình. Ngoài ra, còn có một ủy ban cấp Vùng chịu trách nhiệm theo dõi tiến độ thực hiện chương trình. Ông Miras: TPHCM có chính sách như thế nào để xóa các khu nhà lụp xụp? Bà Hoàng Thị Kim Chi: Chuơng trình xóa nhà lụp xụp chủ yếu tập trung dọc bờ kênh (đất công). Chuơng trình này đã gặp nhiều khó khăn; các khu tái định cư đuợc xây dựng ở khá xa. Hơn nữa, việc chuyển đổi nghề cho người tái định cư cũng thất bại. Ông Ifrassen: Ở Maroc, trong một thời gian dài, mảng tái định cư trong chính sách xóa các khu nhà lụp xụp cũng thất bại. Điều quan trọng là phải xóa bỏ toàn bộ tất cả các khu nhà lụp xụp. Thật vậy, ở Maroc, trong suốt một thời gian dài, khi triển khai thực hiện các dự án này đều gặp phải sự phản đối của người dân (thường là những hộ gặp khó khăn), điều này dẫn đến việc tái xuất hiện các khu nhà lụp xụp một vài năm sau đó. 58 Điều quan trọng là phải hành động nhanh trong một thời hạn đã định và tái định cư cho tất cả các hộ trong khu nhà lụp xụp. Ngay cả khi giải pháp này dẫn đến việc di dời người dân ra xa hoặc ở rìa thành phố (2-3 km ngoài phạm vi thành phố), mặc dù điều này không phải là lý tuởng, nhưng ít nhất nó cũng giúp cho các hộ tái định cư có được điều kiện sống về vệ sinh môi trường và xã hội tốt hơn so với ở các khu nhà lụp xụp. Một học viên cho biết: ở TPHCM, các khu nhà lụp xụp xuất hiện ở vùng ven. Ông Ifrassen: Nên sớm bắt đầu giải quyết vấn đề truớc khi các khu nhà này lan rộng hơn nữa. Học Viên: Ở Maroc, quy chế về đất đai như thế nào, có khung giá đất không? Việc tiếp cận đất đai có khó khăn không? Ông Ifrassen: Ở Maroc, quy chế tư hữu đất đai, giống như ở Pháp. Công ty Idmaj-Sakan không mua đất của tư nhân vì giá quá cao. Các cuộc thương lượng với chủ sở hữu đất tư nhân rất khó thậm chí là không thể vì giá đất quá cao, trừ một vài truờng hợp giảm giá. Nói chung, rất khó sử dụng đất của khu vực tư nhân để thực hiện các dự án tái định cư. II. Công ty Lydec ở Maroc, quản lý các dịch vụ cấp, thoát nước, xử lý nước thải, điện và hệ thống chiếu sáng công cộng (Ông Cluzeau, dự án INDH-INMAE và công ty Lydec) 1.Bối cảnh dự án INDH-INMAE Lydec là công ty quản lý các dịch vụ cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải, điện và hệ thống chiếu sáng. Công ty được thành lập dựa trên quan hệ đối tác công tư và được ủy quyền quản lý các mạng lưới nói trên theo bản hợp đồng quản lý có thời hạn 30 năm, tính từ năm 1997. Các cổ đông bao gồm: - Suez Environnement (51,00 %), - Fipar Holding (19,75 %), - RMA Wataniya (15,00 %). ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Un participant demande si les nouveaux propriétaires, anciens habitants des bidonvilles, revendent leur bien malgré l’interdiction de revendre dans un délai de cinq ans. A HCMV, un tel délai existe également mais il n’est pas respecté par les relogés qui souvent revendent très rapidement. M. Ifrassen admet que la mise en œuvre du projet à Casablanca rencontre les mêmes difficultés. Afin de remédier à ce problème, un registre national a été constitué dans le but d’enregistrer les ménages (l’homme et la femme) bénéficiant d’un relogement (que ce soit par le biais d’un lot ou d’un appartement). Si ces personnes sont de nouveau recensées dans un autre bidonville, alors elles ne peuvent plus bénéficier de l’aide de l’Etat. Un participant souhaite savoir comment s’organise le suivi/contrôle du relogement pour ne pas qu’il y ait des détournements de fonds. M. Ifrassen explique que la société Idmaj-Sakan assure un suivi financier du programme. Il existe par opération des comités locaux constitués d’élus et d’associations de quartier qui suivent au jour le jour l’état d’avancement du relogement des ménages. Par ailleurs, un comité régional suit l’état d’avancement général du programme. M.de Miras souhaiterait établir une symétrie avec HCMV et connaître quelle est la politique de résorption de l’habitat insalubre. Mme Kim Chi indique que le programme de résorption des bidonvilles concerne essentiellement les terrains le long des canaux (terrains publics). Ce programme rencontre plusieurs difficultés ; les lieux de relogement proposés aux habitants de ces bidonvilles étant éloignés. De plus, la prise en compte de la reconversion professionnelle est défaillante. M. Ifrassen réagit et précise que les politiques d’éradication de l’habitat insalubre au Maroc ont également été pendant longtemps un échec en matière de relogement. Il souligne que le plus important est d’éradiquer l’ensemble, la totalité du bidonville. En effet, pendant longtemps, lors de la mise en œuvre d’anciens projets, des poches de bidonvilles résistaient (souvent les foyers les plus en difficulté), ce qui redonnait lieu à l’apparition de bidonvilles quelques années plus tard. L’important est d’agir rapidement dans un délai donné et de reloger l’ensemble des ménages du bidonville ciblé. Même si la solution choisie mène parfois à reloger les populations en dehors ou aux franges de la ville, (à deux ou trois kilomètres des limites de la ville), même si ce n’est pas idéal, elle permet au moins d’apporter une solution sanitaire et sociale qui semble meilleure que le bidonville. Un participant signale qu’à HCMV, des bidonvilles apparaissent en dehors de la ville. Selon M. Ifrassen il est souhaitable de commencer rapidement à affronter le problème avant qu’il ne se répande. Un participant s’interroge sur le statut du foncier au Maroc. Existe-t-il une grille de prix ? Est-il difficile d’accéder au foncier ? M. Ifrassen précise qu’au Maroc le statut de la propriété privée est le même qu’en France. La société Idmaj-Sakan ne fait pas appel au foncier privé, trop cher. Les négociations avec le privé sont très difficiles voire impossibles car le prix du foncier est trop élevé sauf dans certaines opérations de promotion immobilière. De façon générale, il est difficile de faire appel au foncier du marché privé pour réaliser des opérations de relogement. II. La société Lydec au Maroc, gestionnaire des services d’eau, d’assainissement liquide, d’électricité et d’éclairage public (M. Cluzeau, projet INDH-INMAE et société Lydec) 1. Contexte du projet INDH-INMAE Lydec est une Société gestionnaire des services d’eau, d’assainissement liquide, d’électricité et d’éclairage public. Elle a été fondée sur le principe d’un partenariat public – privé avec un contrat de gestion déléguée pour une durée de trente ans depuis 1997. Les actionnaires sont : - Suez Environnement (51,00 %), - Fipar Holding (19,75 %), - RMA Wataniya (15,00 %). 59 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Doanh thu lên tới 5 tỉ dirhams mỗi năm, trong đó 70% là từ tiền điện. Phần lớn các khoản đầu tư (70%) là dành cho các dịch vụ cấp, thoát nước và xử lý nước thải. Lydec có 3.400 nhân viên để đáp ứng nhu cầu của một triệu khách hàng. Sáng kiến quốc gia vì sự phát triển con người (INHD) được vua Mohammed đưa ra ngày 18 tháng 5 năm 2005, xác định ưu tiên của quốc gia là xóa bỏ những khu nhà ở lụp xụp và chống lại việc người nghèo bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ông nói trong bài phát biểu ngày 18 Tháng 5 năm 2005: "sự phát triển hiệu quả và bền vững chỉ có thể được thực hiện thông qua các chính sách tích hợp". Chính sách này bao gồm ba lĩnh vực chính: - Tiếp cận các công trình cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội cơ bản; - Tạo ra các hoạt động để có thu nhập; - Hỗ trợ cho những người gặp khó khăn nhất. Vùng đô thị Casablanca có gần 4,5 triệu dân, trong đó 20% sống trong các khu nhà lụp xụp (gần 900.000 dân). Từ năm 2005, việc xóa bỏ các khu nhà lụp xụp được thực hiện theo hai chương trình như sau: - Chương trình thứ 1, công ty Idmaj- Sakan đã trình bày ở trên. Đây là chương trình di dời và tái định cư. 400.000 người thụ hưởng chương trình này. Công ty Lydec không tham gia trực tiếp vào việc di dời và tái định cư người dân, mà chỉ tham gia gián tiếp theo yêu cầu của Công ty Idmaj-Sokan và Công ty Al Omrane . - Chương trình thứ 2 là dự án giữ người dân tại chổ và cung cấp các dịch vụ (nước sạch, thoát nước và điện) cho người dân. Chương trình này liên quan đến khoảng 500.000 người. Ngày 13 tháng 9 năm 2005, Thỏa thuận khung đã được ký kết giữa Cộng đồng đô thị Casablanca, Lydec, Chính quyền Vùng đô thị Casablanca và Bộ Nội Vụ. Công ty Lydec đã lập ra Ban chỉ đạo chương trình INDH-INMAE, có nhiệm phối hợp với chính quyền để chỉ đạo và theo dõi chương trình này. Ngoài ra, Ban chỉ đạo còn có nhiệm vụ tìm kiếm các giải pháp kỹ thuật và tài chính để cung cấp các dịch vụ tận nhà cho 500.000 cư dân. Le chiffre d’affaires s’élève à 5 000 millions de dirhams par an dont 70 % sont dégagés grâce à la vente de l’électricité. La majorité des investissements (70 %) sont destinés au service d’eau et d’assainissement. Lydec emploie 3 400 personnes afin de répondre aux besoins d’un million de clients. L’Initiative Nationale pour le Développement Humain (INDH) a été lancée le 18 mai 2005 par sa Majesté le Roi Mohammed VI qui a alors érigé en priorité nationale la lutte contre l'habitat insalubre et l'exclusion sociale. Le Roi a déclaré lors de son discours du 18 mai 2005 que « le développement efficace et durable ne peut se concrétiser que par le biais de politiques publiques intégrées ». Cette politique est constituée de trois axes principaux : - accès aux équipements et services sociaux de base, - activités génératrices de revenus stables, - aide aux personnes en grande vulnérabilité. La région du Grand Casablanca compte près de 4,5 millions d’habitants dont 20 % vivent dans des habitations insalubres (soit environ 900 000 habitants). Depuis 2005, la résorption de l’habitat insalubre s’organise selon deux programmes différents : - le programme 1, Idmaj-Sakan, exposé ci-avant. Il s’agit d’un programme de déplacement des populations par le relogement ou le recasement. Ce programme concerne environ 400 000 habitants. Lydec n’intervient pas dans le processus de transfert des populations et répond aux demandes des deux opérateurs Idmaj-Sakan et Al Omrane. - le programme 2 est un projet de maintien sur place des populations et d’accès aux services (eau, assainissement et électricité). Ce programme concerne environ 500 000 habitants et a fait l’objet, le 13 septembre 2005, de la signature d’un accord cadre INDH entre l'Autorité Délégante (Communauté Urbaine de Casablanca), Lydec, la Wilaya (Préfecture de région) du Grand Casablanca et le Ministère de l’Intérieur. Lydec a créé une Direction INAME pour le projet spécifique INDH-INMAE ; cette Direction assure le pilotage de ce programme de maintien sur place des populations, et son suivi avec les autorités. Cette Direction a pour mission de trouver des solutions techniques et financières pour apporter les services à domicile aux 500 000 habitants concernés. Programme 1 Déplacements des populations relogement ou recasement 400.000 habitants Chương trình 1: Di dời và tái định cư người dân bằng căn hộ hoặc nền đất; 400.000 người Chương trình 2 : giữ người dân tại chỗ; 500.000 người 60 ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Programme 2 Programme de maintien sur place 500.000 habitants 61 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI 2. Dự án INDH-INMAE Các nguyên tắc trong thỏa thuận khung INDH ký ngày 13 tháng 9 năm 2005: 1) Tiếp cận dịch vụ cấp nước, xử lý nước thải và điện; 2) Chính quyền phê duyệt từng dự án (phạm vi, đối tượng thụ hưởng...); 3) Các dự án được: - Hưởng chương trình hỗ trợ khách hàng của Lydec (trước, trong và sau khi thi công) Đóng góp của người hưởng lợi khoảng 2.000 dirham cho mỗi dịch vụ với khả năng trả chậm trong vòng 4 năm hoặc 7 năm; Một phần ngân sách của dự án được các cơ quan tài trợ (Văn phòng cấp nước sạch quốc gia, Tổ chức phát triển, Qũy tương trợ nhà ở, Chương trình INDH…); Hợp đồng ủy thác quản lý: • Lydec chịu các chi phí quản lý dự án, • Miễn đóng góp cho Quỹ công trình, • Ứng trước tiền đóng góp của người thụ hưởng (người thụ hưởng trả chậm từ 4 đến 7 năm). ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT 2. Le projet INDH-INMAE Les principes de l’accord cadre INDH du 13 septembre 2005 sont multiples : 1) l’accès aux services à domicile assainissement et électricité ; en eau, 2) les autorités valident chaque opération (périmètre, bénéficiaires …) ; 3) les opérations bénéficient : assainissement), Al Omrane (Holding d’Aménagement), Fonds de Solidarité Habitat (FSH),, Global Partenaireship on Output – Based Aid (GPOBA), INDH … le Contrat de Gestion Déléguée : • la prise en charge des coûts de gestion du projet par Lydec, • l’exonération du paiement des participations au Fonds de Travaux, • le préfinancement de la contribution des bénéficiaires (sur quatre ou sept ans). - d’un accompagnement clientèle dédié par Lydec (avant, pendant et après les travaux), - Khuôn khổ tài chính đặc biệt: - d’un cadre spécifique pour le financement : Tổng mức đầu tư của dự án: Tổng mức đầu tư ước tính vào ngày 30 tháng 6 năm 2010 là 1.615.000.000 dirham bao gồm thuế: - 1.138 triệu dirhams để xử lý nước thải; - 469 triệu dirhams cho nước sạch; - 8 triệu dirhams cho điện. Thoát nước và xử lý nước thải 70% Nước sạch une contribution des bénéficiaires de 2 000 dirhams TTC par service avec des facilités de paiement sur quatre ans ou sept ans ; une partie des travaux subventionnée (Office National Eau Potable (ONEP Maroc 29% Điện 1% Montant total des investissements du projet : Le montant total des investissements est évalué au 30 juin 2010 à 1 615 millions de dirhams TTC dont : -1 a) Việc quản lý dự án Các phương pháp tiếp cận của Lydec được xây dựng để cung cấp cho ba lĩnh vực: xử lý nước, cấp điện và cấp nước như sau: - Một khuôn khổ hợp đồng với chính quyền (hợp đồng mẫu); - Lựa chọn kỹ thuật; - Tiêu chuẩn khách hàng; - Một khuôn khổ tài chính được kiểm soát. Quy trình này cho phép lập ra khuôn khổ cho các hoạt động của dự án với các đối tác. Những cam kết đưa ra phù hợp với chuyên môn của Lydec và Lydec luôn luôn cảnh giác để không đi chệch hướng vào công tác xã hội. Nhờ đó, tất cả các vướng mắc phát sinh đều được xác định, theo dõi định kỳ và báo cáo cho các cơ quan nhà nước có liên quan. Báo cáo về tình hình tài chính và các yếu tố cản trở tiến độ của dự án trong năm qua được gửi cho chính quyền các cấp. Ngoài ra, một tài liệu trình bày công tác quản lý người dân cũng được soạn thảo. 138 millions de dirhams TTC pour l’assainissement des eaux usées ; - 469 millions de dirhams TTC pour l’eau potable; - 8 millions de dirhams TTC pour l’électricité. a) Le management du projet La démarche engagée par Lydec est structurée de façon à offrir à chacun des trois métiers de l’eau, de l’assainissement et de l’électricité les éléments suivants : - un cadre contractuel avec les autorités (convention type) ; - des choix techniques arrêtés ; - des normes clientèles spécifiques ; - un cadre financier maîtrisé. 62 Assainissement 70% Eau potable 29% Electricite 1% Ce procédé permet de cadrer la démarche du projet en permanence avec les partenaires. Les engagements pris correspondent aux métiers de Lydec qui reste vigilant à ne pas verser dans les métiers sociaux. Ainsi, tous les facteurs bloquants exogènes sont identifiés et périodiquement suivis et rappelés aux autorités concernées. Un rapport fait état, à toutes les autorités publiques, des financements et des facteurs bloquants et surtout de l’avancement du projet durant l’année écoulée. Un autre document explique comment est traitée la gestion des habitants. 63 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI b) Processus de travail du projet INDH-INMAE Người dân NGHIÊN CỨU THI CÔNG Đồng hành cùng khách hàng INDH – INMAE Lydec « classique » KHAI THÁC Khách hàng Theo dõi việc thực hiện cam kết của các đối tác Quy trình làm việc của dự án INDH - INMAE Các hoạt động ở Lydec diễn ra theo từng giai đoạn: dự án, nghiên cứu, thi công, khai thác. Lydec đầu tư hàng năm 150.000.000 USD để thực hiện các hoạt động này. Nhà nước đã giao nhiệm vụ cho INDH cải tạo các khu dân cư tự phát thông qua việc cung cấp các dịch vụ cơ bản. Dự án phải: - làm việc với các bên về việc chiếm đất trái phép, - công nhận những người dân vốn không được chính quyền công nhận về mặt quản lý hành chính; đầu tư các công trình dịch vụ công để duy trì sự bền vững. Thông thường, các dịch vụ công rất dễ bị chỉ trích. Do đó, hai hoạt động cụ thể (phần trong khung màu đỏ và màu xanh lá cây ô trong bảng trên) được tạo ra để: - Người dân trong các khu nhà tự phát trở thành khách hàng thực thụ và được công nhận tư cách. Việc thi công các công trình cũng gây nhiều trở ngại cho cuộc sống của người dân trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. - Cụ thể hóa công tác quản lý điều hành. Việc có nhiều chủ thể tham gia đòi hỏi phải có công tác điều phối và tiến hành theo dõi các cam kết mà các bên đã đưa ra. Việc dùng biểu tượng đèn tín hiệu giao thông có thể giúp quản lý các vấn đề phức tạp. Việc chuyển từ giai đoạn nghiên cứu sang giai đoạn thực hiện là yếu tố then chốt vì nó dẫn đến các cam kết về tài chính. Chưa tiến hành triển khai các hoạt động khi thấy còn có những cản trở có thể dẫn đến tốn kém hơn. Cũng cần chú ý đến nguy cơ người dân không tham gia vào dự án. Ba yếu tố gây cản trở: - Kỹ thuật, - Nhân lực, - Tài chính. Opérations INDH-INMAE Dự án INDH - INMAE DỰ ÁN Đặc thù của dự án INDH – INMAE Khai thác LYDEC Lydec “thông thường” PROJET Habitant Spécifiques Projet INDH-INMAE ETUDES TRAVAUX EXPLOITATION Accompagnement clientèle INDH-INMAE Suivi des Engagements des Partenaires Client Exploitations LYDEC b) Tổ chức dự án INDH-INMAE ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Processus de travail du projet INDH-INMAE Les activités de Lydec se déroulent selon des étapes classiques : projet, étude, travaux, exploitation. Lydec investit chaque année 150 000 000 de dollars pour mettre en place ces activités. L’Etat a missionné INDH pour que ces quartiers informels deviennent légaux par le biais de l’apport de ces services élémentaires. Il s’agit de : - travailler sur un terrain acquis dans l’illégalité ; - reconnaître une population qui n’était pas reconnue administrativement par les autorités ; - financer des ouvrages du service public afin qu’ils restent pérennes. Très souvent, le service public se retrouve au milieu des affrontements et devient le bouc émissaire des dysfonctionnements. Eviter ces dysfonctionnements et organiser le projet de façon claire et pertinente, est donc un enjeu fort. Dès lors, deux activités spécifiques (encadrés rouge et vert dans le tableau ci-dessus) ont été créées afin : deviennent effectivement des clients connus et reconnus, sachant que les travaux perturbent les foyers durant des mois voir des années ; - que la gouvernance soit matérialisée. En effet, la multiplicité d’acteurs demandait un travail de coordination qui s’est traduit par le suivi des engagements des partenaires. Le symbole simple des feux tricolores permet de gérer des sujets compliqués. Le passage de la phase d’étude à la phase de mise en œuvre est un moment clé et charnière car il engage des coûts importants. Ainsi, il n’est pas envisageable d’engager la phase opérationnelle si des risques de blocages émergent entraînant une perte d’argent. Le risque de non-adhésion de la population ne doit pas être négligé. Les trois facteurs bloquant étudiés sont alors : - techniques, - humains, - financiers. - que les habitants des logements informels 64- 65 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT c) Gouvernance du projet c) Điều hành dự án Extraits du dernier bilan (30 juin 2010) Trích báo cáo mới nhất (30/6/2010) Phân tích các yếu tố “gây cản trở” đã được xác định Impact en nombre de foyers bénéficiaires (1) Analyse des facteurs « bloquants » identifiés 1. Phương thức can thiệp chưa được phê duyệt 3.100 hộ 1. Modes d’intervention non validés 3 100 foyers 2. Bản đồ không có sẵn 6.100 hộ 2. Plans de restructuration non disponibles 6 100 foyers 3. Mua lại đất để xây dựng công trình 34.050 hộ 3. Acquisitions foncières pour les ouvrages 34 050 foyers 4. Các hoạt động phụ thuộc vào việc hoàn thành các công trình của đối tác 49.620 hộ 49 620 foyers 5. Các hoạt động phụ thuộc vào nguồn tài chính của Nhà nước để tiếp nhận mạng lưới nước do các hiệp hội lắp đặt 4. Travaux tributaires de l’achèvement des ouvrages hour site par les partenaires 12.000 hộ 5. Travaux tributaires du financement par les Communes de la reprise des réseaux in site eau pesés par les Associations 12 000 foyers 6. Quy trình phê duyệt danh sách các hộ thụ hưởng Yếu tố này đã được giải quyết 6. Processus de validation des listes des bénéficiaires Facteur résolu 7. Thâm hụt ngân sách 46.810 hộ 7. Déficit de financement 46 810 foyers (1): Một gia đình/một khu phố có thể bị ảnh hưởng bởi một hoặc nhiều yếu tố cản trở. Tổng số 78.130 hộ gia đình trong 270 khu phố. Cứ 6 tháng 1 lần, tiến độ giải quyết các yếu tố gây cản trở lại được xem xét, nghiên cứu. 7 yếu tố cản trở chính 1. đã được xác định như bảng trên: Phương thức can thiệp chưa được duyệt: các hộ không biết mình thuộc diện chương trình nào (1 2. hoặc 2). Bản đồ chưa được duyệt: chưa có bản đồ, nên 3. chưa thể tiến hành khởi công. Mua lại đất để xây dựng công trình: Việc chuyển đổi các quy chế chính thức về đất để hợp pháp hóa các khu đất, vốn cần thiết cho việc tiến hành các hoạt động, không phải lúc nào cũng thực hiện 4. đúng tiến độ dự kiến, do đó dẫn đến chậm trễ. Các hoạt động phụ thuộc vào việc hoàn thành các công trình của đối tác: ví dụ công ty Lydec thực 66 Số hộ dân chịu ảnh hưởng (1) hiện các hoạt động của dự án, nếu Lydec có sự chậm trễ trong công việc, thì điều đó sẽ gây ảnh hưởng đến dự án INDH. 5. Các hoạt động phụ thuộc vào tài chính của Nhà nước trong việc tiếp nhận các mạng lưới. 6. Quy trình phê duyệt danh sách các hộ được hưởng lợi: các hộ trong khu vực được hưởng chế độ giá dịch vụ đặc biệt 7. Thâm hụt ngân sách: huy động tài chính là một trong những mục tiêu của dự án. Tài chính có thể là 1 yếu tố gây cản trở khi nó bị thiếu hụt. Ban đầu dự án chỉ huy động được 50% kinh phí để thực hiện. Thông tin được chia sẻ giữa các đối tác thông qua các phiếu xác định tình trạng của các yếu tố gây trở ngại. Các phiếu này được tập hợp trong “Báo cáo tổng kết 6 tháng 1 lần tiến độ của chương trình INDH” và được gửi đến tất cả các đối tác. (1) : il est à noter qu’un même foyer/quartier peut être concerné par un ou plusieurs facteurs bloquants. Total = 78 130 foyers sur 270 quartiers Tous les six mois, l’avancement du ou des facteurs bloquants est étudié. Sept facteurs bloquants généraux principaux ont ainsi été identifiés comme le montre le tableau : 1. Modes d’intervention non validés : le foyer ne sait pas à quel programme (1 ou 2) il est rattaché. 2. Plans de restructuration non validés : les plans ne sont pas disponibles, il n’est pas possible de lancer les travaux. 3. Acquisitions foncières pour les ouvrages : la transformation des statuts des terrains informels vers leur légalisation, nécessaire à l’intervention, ne se fait pas toujours dans les temps entraînant ainsi des retards. 4. Travaux tributaires de l’achèvement des ouvrages hors site par les partenaires : exemple de Lydec qui réaliserait des travaux en nature pour le projet. Si Lydec prend du retard, cela impacte le projet INDH. 5. Travaux tributaires du financement par les Communes de la reprise des réseaux. 6. Processus de validation des listes des bénéficiaires : les habitants de ces zones bénéficient d’une tarification particulière. 7. Déficit de financement : rassembler des fonds est un des objectifs du projet. L’argent peut donc constituer un facteur bloquant lorsqu’il vient à manquer. Au départ, le projet ne rassemblait que 50 % de l’argent nécessaire à la réalisation des actions INDH. L’information entre les partenaires publics est transmise grâce à des fiches qui font état des facteurs bloquants. Ces fiches sont compilées dans un document « Bilan semestriel d’état d’avancement du programme INDH » communiqué à tous les partenaires. 67 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Ví dụ phần trích của một phiếu trong Báo cáo Exemple de fiche extraite du bilan Chính quyền tỉnh và thành phố có liên quan theo dõi tiến độ của chương trình. Mỗi yếu tố cản trở đều được xác định bằng một phiếu có kèm theo bản đồ. Nơi nào có số màu đỏ, thì nơi đó có yếu tố cản trở. Le programme est mesuré par province et par ville. Pour chaque facteur bloquant, il existe une fiche qui comporte une carte. Lorsque le chiffre devient rouge cela signifie qu’il existe un blocage. DỰ ÁN INDH – INMAE CHƯƠNG TRÌNH GIỮ NGƯỜI DÂN TẠI CHỖ WILAYA Yếu tố cản trở số 1: Phương thức hành động chờ phê duyệt Tiến triển so với báo cáo tháng 12 năm 2009 Vào: 3 khu phố 900 hộ Ra: 0 khu phố 0 hộ Thành phố Casablanca Vùng Mohammadia Số khu phố Số hộ 0 0 Chú thích các yếu tố cản trở: Phương thức hành động chờ phê duyệt Dự án mới chờ phê duyệt So với báo cáo tổng kết tháng 12 năm 2009 Không có tiến triển Số khu phố Số hộ 4 1.150 So với báo cáo tổng kết tháng 12 năm 2009 +1 Thành phố Mansouria +750 Số khu phố Số hộ 18 1.300 So với báo cáo tổng kết tháng 12 năm 2009 Không có tiến triển Tỉnh Nouacer Số khu phố Số hộ 1 200 So với báo cáo tổng kết tháng 12 năm 2009 Không có tiến triển Tỉnh Nouacer Số khu phố Số hộ 4 450 So với báo cáo tổng kết tháng 12 năm 2009 +2 Các tài liệu này được gửi thường xuyên cho tất cả các đối tác, cho phép tất cả các chủ thể có được thông tin như nhau về tình hình đang diễn ra, các yếu tố gây cản trở cũng như giải pháp để giải quyết. Quy trình này giúp giảm bớt sự căng thẳng trong mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước, các bộ phận kỹ thuật và người dân. Nó cũng cho phép tháo gỡ các vướng mắc về kỹ thuật. 68 3.100 hộ trong tổng số 78.130 hộ chiếm 4% +150 Để việc điều hành được thuận lợi, các chủ thể phải luôn trong tư thế sẵn sàng hành động khi một yếu tố vướng mắc được tháo gỡ. Theo kết quả của các báo cáo, những yếu tố vướng mắc thường gặp nhất là yếu tố số 4 và số 7 nêu trên. Le document est envoyé très régulièrement à l’ensemble des partenaires, ce qui permet à tous les acteurs d’avoir une même compréhension des situations, des facteurs bloquants et des solutions à apporter. Ce processus a aidé à dédramatiser les relations entre les différents pouvoirs publics, les techniciens et les habitants et a ainsi permis de débloquer des situations techniques. Pour une bonne gouvernance, les acteurs techniques doivent se tenir prêts à agir lorsqu’un facteur est débloqué. Il ressort des différents bilans que les facteurs bloquants les plus récurrents sont les facteurs 4 et 7. 69 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI 3. Tình hình dự án INDH-INMAE đến ngày 30/6/2010 Đang phục vụ 15.290 hộ 3. État d'avancement du projet jusqu'au 30 juin 2010 Đang thi công 13.410 hộ Tình hình tiến độ dự án: Đang gọi thầu 2.620 hộ Đang lập dự án 540 hộ Chương trình giữ dân tại chỗ 500.000 dân 20 % đang phục vụ + 17 % đang thi công + 3 % đang gọi thầu = 40 % tương đương với 31.320 hộ trên tổng cộng 78.130 hộ Nghiên cứu đã xong, chờ khởi công 46.270 hộ Đóng góp của người thụ hưởng 160 dirham Tài chính của dự dán Tổng vốn đầu tư Các đối tác 189 dirham 1.615 triệu dirham Nguồn có sẵn Thiếu hụt 814 dirham 801 triệu dirham Đơn vị nhận ủy thác quản lý 338 dirham Thiếu hụt Kế hoạch hành động 2011 - 2012 814 dirham Hiện nay, mục tiêu chính là tìm nguốn vốn để thực hiện giai đoạn cuối của chương trình. Báo cáo này đóng vai trò quan trọng vì nó cho phép: - Người ra quyết định thấy rõ ảnh hưởng của việc không có sự quản lý, - Trao đổi vấn đề tài chính với tất cả các chủ thể một cách đơn giản, - Chứng tỏ được rằng nếu các giải pháp được thực hiện theo đúng tiến độ thì chương trình sẽ hoàn thành vào năm 2014. FSH 22 dirham Các khoản tài trợ khác 93 dirham a) Yếu tố chính của dự án Các yếu tố chính quyết định sự thành công của dự án gồm: - Khuôn khổ thể chế và quyết tâm chính trị mạnh mẽ; - Phương pháp tiếp cận tích hợp, lồng ghép nhiều mảng; - Cách tiếp cận có sự tham gia, tham khảo ý kiến của người dân; - Quản lý/điều hành tốt và có sự điều phối thường xuyên giữa các bên liên quan. b) Các dịch vụ: đòn bẩy đầu tiên cho việc phát triển các khu vực được giữ lại Việc triển khai các dịch vụ dẫn đến công nhận tình trạng cư trú của người dân. Điều này góp phần đáng kể cho việc cải thiện các công trình xây dựng, tăng cường tính năng động về kinh tế và xã hội được thể hiện trong biểu đồ dưới đây. Phát triển Nhà ở Đất đai Dịch vụ 70 ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Aujourd’hui, l’objectif principal est de trouver les fonds pour engager la dernière tranche du programme. Ce bilan joue un rôle primordial car il permet : - aux décideurs de visualiser l’impact de leur non gestion, - de parler simplement avec l’ensemble des acteurs du financement, - de formaliser la situation en montrant que si des solutions sont apportées à temps, il sera possible d’achever le programme en 2014. a) Facteurs clés du projet Les facteurs clés pour une réussite du projet se décline en quatre points essentiels : - un cadre institutionnel et une volonté politique forte ; - une approche intégrée ; - une démarche participative, en concertation avec la population ; - une bonne gouvernance et une coordination permanente entre les intervenants. b) Les services : premier levier du développement des quartiers maintenus sur place La mise en place des services donne lieu à la reconnaissance des habitants qui contribue fortement à entraîner une dynamique d’amélioration du cadre bâti et, par la suite, une dynamique économique et sociale comme le montre le schéma ci-après. Phát triển kinh tế và xã hội Cải thiện nhà ở Hợp pháp hóa tình trạng sở hữu đất đai của người dân Nước sạch / thoát nước - xử lý nước thải/điện 71 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Nhận xét và trao đổi Bà Hoàng Thị Kim Chi nêu ra ví dụ có một nhà máy cấp nước đã đi vào hoạt động, nhưng mạng lưới cấp nước lại được xây dựng chậm trễ, đây cũng tương tự như một trong các yếu tố vướng mắc mà Ông Cluzeau đã nêu và đặt câu hỏi: Xin cho biết nội dung của thỏa thuận khung, các tiêu chuẩn khách hàng và các vấn đề đã được giải quyết như thế nào từ sau các báo cáo nêu trên. Ông Cluzeau: Sau tuyên bố của Vua Maroc nhằm kêu gọi tất cả các chủ thể công trên cả nước hành động để xóa bỏ các khu nhà lụp xụp và tạm bợ, thì một thỏa thuận khung đã được ký kết giữa các bên. Mỗi vùng (ở Maroc có tất cả 16 vùng) phối hợp với tất cả các chủ thể để cụ thể hóa các giải pháp của mình. Dự án INDH-INMAE là giải pháp cụ thể cho vùng đô thị Casablanca. Dự án này được ký với các thành phố trong Vùng đô thị Casablanca và Bộ Nội vụ Maroc, đưa ra các mục tiêu trong khuôn khổ tài chính xác định. Lydec đã ký hợp đồng quản lý các dịch vụ cấp, thoát nước, xử lý nước thải, cấp điện và chiếu sáng công cộng với các thành phố trong Vùng Casablanca. Công ty Lydec được quản lý theo mô hình doanh nghiệp tư nhân, nhưng phần lớn nhân viên là công chức lấy từ các công ty cấp nước cũ của nhà nước. Cổ đông chính của Lydec là Suez Environnement, chiếm 51% số vốn vì chính quyền mong muốn rủi ro về quản lý phải do tư nhân chịu. Việc lựa chọn đơn vị quản lý được tính toán rất kỹ. Cần lựa chọn công ty chuyên nghiệp, có năng lực chuyên môn để thực hiện dịch vụ (không nên chọn nhà đầu tư chỉ đơn thuần về mặt tài chính mà không có năng lực chuyên môn). Tất cả các công trình do Lydec đầu tư xây dựng đều thuộc sở hữu của nhà nước. Từ năm 2006, mỗi năm công ty đều báo cáo. Hình thức và nội dung báo cáo luôn luôn được cải thiện để đạt được như ngày hôm nay. Ngoài ra, còn có các phiếu thông tin rõ ràng và cụ thể hơn, giúp đưa ra các vấn đề gặp phải và cách tiếp cận để giải quyết. Tài liệu này gồm 2 loại phiếu: ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Remarques et échanges - Phiếu 1: Làm thế nào để song hành cùng khách hàng ở các khu dân cư thu nhập thấp ? - Phiếu 2: Giá đặc biệt, tiêu chí chọn đối tượng được hưởng giá đặc biệt. Lydec đưa ra đề xuất gửi chính quyền địa phương để chính quyền quyết định đối tượng nào được hưởng giá đặc biệt. Mme Kim Chi partage un exemple qui fait état d’une station de distribution d’eau potable dont la mise en service a été retardée car les tuyaux ne sont toujours pas implantés, faisant ainsi référence à l’un des facteurs bloquants évoqués par M. Cluzeau dans sa présentation. Ngày từ đầu, các hộ dễ bị tổn thương đã được xác định và công nhận để họ không cố ý làm cho cuộc sống của mình khó khăn hơn với mục đích để chính quyền hỗ trợ nhiều thêm. Người dân thụ hưởng dịch vụ trước khi quy chế cư trú của họ được hợp pháp hóa. Mme Kim Chi demande, par ailleurs, des précisions sur le contenu de l’accord-cadre, sur les normes clients et souhaite savoir comment les problèmes ont été résolus au vu des rapports des années précédentes. Học viên: Ở Maroc, có công ty nào khác như Lydec không? Ông Cluzeau: Maroc có 3 thành phố lớn: Casablanca, Rabat và Tanger. Hai thành phố Rabat và Tanger cũng ủy thác việc quản lý các dịch vụ cho đơn vị tư nhân giống như Lydec. Các thành phố khác thì do các công ty nhà nước trực tiếp cung cấp dịch vụ. Hiện nay, các công ty này cũng đang trong giai đoạn chuyển đổi. Mục tiêu chính của các công ty tương tự như Lydec là quản lý các dịch vụ cơ bản và chuyển giao kinh nghiệm, chuyên môn về quản lý và điều hành. Tất cả các tài sản, đầu tư xây dựng đều thuộc sở hữu của thành phố. Lydec chỉ là đơn vị quản lý trong một giai đoạn nhất định để nâng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu suất của dịch vụ và đảm bảo tính bền vững của dịch vụ về lâu dài. III. Một số dự án xử lý nước thải ở TPHCM (Trung tâm điều phối chương trình chống ngập TPHCM) Trung tâm điều hành chương trình chống ngập được thành lập vào cuối năm 2008. Trung tâm có nhiệm vụ điều phối các hoạt động của nhiều chủ thể: M. Cluzeau répond qu’un accord cadre a fait suite à la déclaration de sa Majesté dans laquelle il demande à tous les acteurs publics de l’ensemble du pays de collaborer pour répondre à la résorption des quartiers pauvres et précaires. Chaque région (seize régions) autour du préfet a décliné une réponse avec l’ensemble des acteurs. La solution du projet INDH-INMAE est celle qui a émergé pour le Grand Casablanca. Le projet, dont les signataires sont les villes du Grand Casablanca et le Ministère de l’intérieur, fixe des objectifs dans un cadre financier. Lydec, a signé un contrat de délégation de service public avec chacune des villes du Grand Casablanca et constitue ainsi le gestionnaire des services publics ayant tous les pouvoirs en matière de gestion de l’assainissement, de l’eau, de l’électricité et de l’éclairage public. Le management de la société est privé mais les employés sont pour la plupart des fonctionnaires de l’ancienne régie publique des eaux (la RAD). L’actionnaire principal est Suez Environnement à qui le Maroc a confié la mission de délégation de service à plus de 51 % afin que le risque de gestion soit porté par la société. Le choix de cet opérateur est calculé. En effet, il s’agit d’impliquer une société professionnellement compétente et concernée par la mission qui lui est confiée (pas d’investisseur purement financier sans les compétences). Tous les investissements effectués par Lydec sont propriété des villes pour lesquelles les réseaux sont réalisés. Un reporting est effectué tous les ans depuis 2006. Ce rapport final s’est amélioré et étoffé au fil des années pour prendre son format actuel. Il existe par ailleurs un document plus explicite qui fonctionne par fiche et permet de poser les problèmes rencontrés et la 72 démarche entreprise pour y répondre. Ce document comporte deux types de fiches : - Fiche 1 : Comment accompagner les clients des quartiers défavorisés ? - Fiche 2 : Tarifs particuliers, choix, critères et distinction entre les publics éligibles aux tarifs sociaux. Lydec fait une proposition aux autorités qui ensuite décident en dernière instance si oui ou non les personnes sont éligibles aux tarifs spéciaux. Très en amont, les foyers fragiles sont identifiés et reconnus afin qu’ils ne précarisent pas davantage leur habitat de façon intentionnelle dans le but de se faire reconnaître extrêmement précaire par les autorités. Les habitants bénéficient du service avant la régularisation de leur situation avec le concessionnaire (signature, paiement du forfait…). Un participant demande s’il existe d’autres sociétés comme Lydec au Maroc. M. Cluzeau spécifie qu’il existe trois villes régions au Maroc dont la plus importante en taille et population est celle de Casablanca, devant celles de Rabat et de Tanger. Les deux autres régions fonctionnent sur le même modèle que le projet de l’INDH-INMAE avec, de la même manière, une délégation de service public tel que Lydec. Les autres villes gèrent ces services en régie qui tend à se transformer en statut de société. L’objectif principal des sociétés privées gestionnaires de services publics comme Lydec est de gouverner et gérer le service en question. Il incombe à cellesci d’effectuer un transfert de compétences quant à la gestion et au management. Tous les investissements matériels et immatériels sont propriétés des villes. Lydec est gestionnaire sur une durée prédéterminée durant laquelle son rôle est de mettre le service public à un niveau satisfaisant d’efficience pour que le service puisse, à terme s’auto-gérer. III. Quelques projets de traitement des eaux usées à HCMV (Centre de coordination du programme de lutte contre les inondations à HCMV) Le centre de coordination du programme de lutte contre les inondations a été créé fin 2008. Les activités du centre coordonnent les actions et les acteurs : 73 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI - Sở Giao thông Vận tải, liên quan đến mảng thoát nước, - Sở Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, với các dự án chống ngập. Khuôn khổ pháp lý cho công tác điều phối các chương trình chống ngập: Nghị định 88/2007/NĐ-CP ngày 28/5/2007 của Chính phủ về Thoát nước Đô thị và Khu công nghiệp Thông tư 09/2009/TT-BXD ngày 21/5/2009 về hướng dẫn một số nội dung của Nghị định 88/2007/ NĐ-CP 1. Quy hoạch xử lý nước thải ở Thành phố Hồ Chí Minh đến 2025 Mạng lưới thoát nước của TPHCM được xây dựng trong giai đoạn 1930 - 1940. Đây là hệ thống cống chung. Hiện nay, ở các khu đô thị mới nhiều hệ thống cống riêng được xây dựng (tách riêng nước thải và nước mưa). Trong vòng 10 năm trở lại đây, Thành phố đã đầu tư nhiều cho việc cải tạo hệ thống thoát nước nhằm đáp ứng các nhu cầu mới. Thủ tướng đã phê duyệt quy hoạch hệ thống thoát nước của Thành phố với 9 nhà máy xử lý nước thải thông qua các quyết định sau: Quyết định 752/QĐ-TTg ngày 19/6/2001 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch tổng thể hệ thống thoát nước Tp.Hồ Chí Minh đến 2020. Quyết định số 24/QĐ-TTg ngày 06/01/2010 của Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Tp. Hồ Chí Minh đến năm 2025, Thành phố sẽ có 12 nhà máy xử lý nước thải tập trung được phân chia theo các lưu vực khác nhau. Hệ thống thoát nước của TPHCM có các đặc điểm sau: ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT - du Département des Transports et Communications liées à l’assainissement, - des Départements ruraux qui possèdent des projets de lutte contre les inondations. Le cadre juridique dans lequel s’inscrit le centre de coordination du programme de lutte contre les inondations à HCMV s’appuie notamment sur : le Décret n° 88/2007/NĐ-CP daté du 28/5/2007 du Gouvernement sur l’évacuation des eaux en milieu urbain et dans les zones industrielles ; la Circulaire n° 09/2009/TT-BXD datée du 21/5/2009 sur l’application du Décret n° 88/2007/ NĐ-CP. - Hệ thống thoát nước: Cống chung. - Tỉ lệ dân được hưởng dịch vụ thoát nước: 80%, 1. La planification générale du système de traitement des eaux usées à HCMV - Tổng chiều dài tuyến cống thoát nước kín: 1.534 km, - Tổng chiều dài kênh mương thoát nước hở: Le réseau d’assainissement de HCMV a été construit dans les années 1930-1940. Il s’agit d’un réseau d’assainissement unitaire. Aujourd’hui, les villes nouvellement construites bénéficient de réseaux d'assainissement séparatifs (séparation entre les eaux usées et pluviales). tập trung chủ yếu ở khu vực nội thành. 1.177 km - Tổng số cửa xả, cống kiểm soát triều: 816 - Tổng công suất xử lý hiện nay: 171.000 m3/ngày đêm, tương ứng với khoảng 10% của 1.800.000 m3 nước thải sinh hoạt mỗi ngày hiện nay, - Tỉ lệ nước thải được xử lý: ~10% Vùng có hệ thống thoát nước theo quận Au cours des dix dernières années, la ville a mené des travaux pour rénover et répondre aux nouveaux besoins. Le premier ministre a approuvé la planification des réseaux d’assainissement à travers différents décrets dans lesquels sont prévues neuf stations d’eaux usées : Décision n° 752/QĐ-TTg datée du 19/6/2001 du Premier ministre sur l’approbation de la planification générale du système d’assainissement de HCMV à l’horizon 2020. Décision n° 24/QĐ-TTg datée du 06/01/2010 du Premier ministre sur l’approbation de la révision du schéma directeur de HCMV à l’horizon 2025. Selon cette décision, HCMV aura douze usines de traitement des eaux usées réparties sur différents territoires. Le système d’assainissement d’HCMV possède les caractéristiques suivantes : - égouts communs, - taux d’accès au réseau d’assainissement : 80 % essentiellement en milieu urbain, - longueur totale des égouts : 1 534 km, - longueur totale des canaux à ciel ouvert : 1 177 km, - nombre total des portes de rejet et des portes de contrôle de la marée : 816, - capacité totale des usines de traitement actuel : 171 000 m3/jour soit environ 10 % des 1 800 000 m3 rejetés par jour, - taux des eaux usées traitées : environ 10 %. Le réseau d'assainissement des districts. Chú giải Ranh phường Ranh quận Ranh vùng nghiên cứu Sông rạch Vùng có hệ thống thoát nước Chú giải Ranh phường Ranh quận Ranh vùng nghiên cứu Sông rạch Vùng có hệ thống thoát nước 74 75 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Hiện nay, TPHCM có hai nhà máy xử lý nước thải tập trung và nhiều nhà máy xử lý nước thải nhỏ ở các khu dân cư. HCMV accueille deux grandes stations de traitement des eaux usées ainsi que plusieurs stations secondaires dans les quartiers. Các nghiên cứu đang được tiến hành để xây dựng 12 nhà máy xử lý nước thải khác. Một số đơn vị tư vấn khuyên nên nhập chung một số nhà máy nhỏ thành các nhà máy lớn để giảm số vốn đầu tư. Des études sont en cours pour l’implantation des douze stations d’épuration. Certains consultants pensent qu’il serait intéressant de regrouper certaines petites stations pour réduire les investissements. Quy hoạch xây dựng các nhà máy xử lý nước thải đến năm 2025 (Quyết định 24/QĐ-TTg ngày 06/01/2010) Planification des usines de traitement des eaux usées à l’horizon 2025 (Décision 24/QĐ-ttg du 06/01/2010) Hệ thống thu gom Số LƯU VỰC 1 Lưu vực 1 (Tàu Hủ - Bến Nghé - Đôi - Tẻ) 1,3,4,5,6,8, 10, Tân Bình, Bình Chánh Cống chung và cống riêng 2 Lưu vực 2 (phía Tây Thành phố) 12, Tân Phú, Tân Bình, Gò Vấp, Bình Tân Cống chung và cống riêng 3 Lưu vực 3 (Tân Hóa – Lò Gốm) 6, 8, 11, Tân Bình, Tân Phú, Bình Tân, Bình Chánh 4 Lưu vực 4 (phía Nam Thành phố) 7, Nhà Bè 5 Lưu vực 5 (Phía Đông Thành phố) 2, Thủ Thiêm 6 Lưu vực 6 (phía Bắc Thành phố 2) 7 Lưu vực 7 (phía Bắc Thành phố 1) 8 Lưu vực 8 (Tham Cống chung và 12, Bình Thạnh, Gò Vấp Lương - Bến Cát) cống riêng 9 Lưu vực 9 (Nhiêu 1,3,10,Bình Thạnh, Gò Vấp, Lộc – Thị Nghè) Phu Nhuận, Tan Bình Địa bàn (Quận/huyện) 9 Thủ Đức 10 Lưu vực 10 (Bình Tân) Bình Tân 11 Lưu vực 11 (Rạch Cầu Dừa) 12, Hóc Môn 12 Lưu vực 12 (phía Tây Bắc) Củ Chi, Hóc Môn Cống chung và cống riêng Cống riêng Cống riêng Cống riêng Cống riêng Cống riêng Cống riêng Cống riêng Cống riêng Bảng trên liệt kê 12 nhà máy xử lý nước thải và vị trí xây dựng dự kiến đến năm 2025. Công suất của các nhà máy này đã được phê duyệt trong Quy hoạch 76 Công suất nhà máy xử lý nước thải (m3/ngày) Vị trí nhà máy (dự kiến) 512.000 Bình Hưng, Bình Chánh 180.000 Gần công viên Tân Thắng, Tân Phú 300.000 Xã Tân Nhựt, Bình Chánh 200.000 Xã Phước Kiểng, Nhà Bè 350.000 Cát Lái, Q.2 130.000 P. Long Trường, Q.9 170.000 Phường Trường Thọ, Thủ Đức 250.000 Phường An Phú Đông, Quận 12 500.000 Xã Nhơn Đức, Huyện Nhà Bè 110.000 110.000 130.000 Gần Kênh Đen Gần Rạch Dừa Gần Kênh Xáng chung xây dựng Thành phố. Hiện nay, các nghiên cứu đang triển khai thực hiện, sau khi nghiên cứu xong sẽ có thể có đề xuất điều chỉnh vị trí hoặc công suất. No 1 2 Couverture territoriale (District) Système de collecte Capacité (m3/jour) Localisation de l’usine (prévision) 1,3,4,5,6,8, 10, Tân Bình, Bình Chánh égout commun et égout propre 512 000 Bình Hưng, Bình Chánh Bassin 2 (à l’ouest 12, Tân Phú, Tân Bình, de HCMV) Gò Vấp, Bình Tân égout commun et égout propre 180 000 Près du parc Tân Thắng, Tan Phú BASSIN Bassin 1 (Tàu Hủ - Bến Nghé - Đôi - Tẻ) 3 Bassin 3 (Tân Hóa – Lò Gốm) 6, 8, 11, Tân Bình, Tân Phú, Bình Tân, Bình Chánh égout commun et égout propre 300 000 Commune Tân Nhựt, Bình Chánh 4 Bassin 4 (au Sud de HCMV) 7, Nhà Bè égout propre 200 000 Commune Phước Kiển, Nhà Bè 5 Bassin 5 (à l’est de HCMV) 2, Thủ Thiêm égout propre 350 000 Cát Lái, district 2 6 Bassin 6 (au nord de HCMV 2) 9 égout propre 130 000 Quartier Long Trường, Q.9 7 Bassin 7 (au nord de HCMV 1) Thủ Đức égout propre 170 000 Quartier Trường Thọ, Thủ Đức 8 Bassin 8 (Tham Lương Bến Cát) 12, Bình Thạnh, Gò Vấp égout commun et égout propre 250 000 Quartier An Phú Đông, District 12 9 Bassin 9 (Nhiêu 1,3,10,Bình Thạnh, Gò Vấp, Lộc – Thị Nghè) Phu Nhuận, Tan Bình égout propre 500 000 Commune Nhơn Đức, district Nhà Bè 10 Bassin 10 (Bình Tân) Bình Tân égout propre 110 000 Près du canal Đen 11 Bassin 11 (Rạch Cầu Dừa) 12, Hóc Môn égout propre 110 000 Près de l’arroyo Dừa 12 Bassin 12 (au nord ouest) Củ Chi, Hóc Môn égout propre 130 000 Près du canal Xáng Le tableau ci-dessus liste les douze stations d’épuration dont l’implantation est prévue à l’horizon 2025. Leur capacité a ainsi été approuvée dans le schéma de planification. Après les études actuellement en cours, des modifications de localisation et ou de capacité auront peut-être lieu. 77 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI 2. Giới thiệu một vài dự án đang hoặc sẽ triển khai Một số dự án đang triển khai ở các quận/huyện của TPHCM: - Dự án cải thiện môi trường nước Thành phố - Lưu - vực Tàu Hủ - Bến Nghé – Đôi – Tẻ, Dự án vệ sinh môi trường nước lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè, Dự án nâng cấp đô thị, Dự án tiêu thoát nước và cải thiện ô nhiễm kênh Tham Lương – Bến Cát – rạch Nước Lên (Nhà máy Tham Lương – Tây Sài Gòn), Các tiểu dự án thuộc lưu vực rạch Hàng Bàng. Lúc đầu, dự án này được Ngân hàng Phát triển Châu Á cam kết tài trợ, nhưng sau đó Ngân hàng này đã rút vốn vì dự án đã chậm tiến độ rất nhiều so với dự kiến. Sau đó, Thành phố tiếp nhận lại dự án này và chia nó thành nhiều dự án nhỏ. Tiến độ thực hiện các nhà máy xử lý nước thải theo quy hoạch như sau: - Nhà máy đã xây dựng: • Nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng (Lưu vực 1). • Trạm xử lý nước thải Bình Hưng Hòa (không thuộc quy hoạch 12 nhà máy) - Đang đầu tư và chuẩn bị đầu tư: • Nhà máy xử lý nước thải Tham Lương – Bến Cát (Lưu vực 8) • Nhà máy xử lý nước thải Nhiêu Lộc – Thị Nghè (Lưu vực 9). - Đang kêu gọi đầu tư: 9 nhà máy còn lại Hình thức đầu tư: chủ yếu là BT hoặc BOT với nguồn vốn chủ yếu là vốn ODA. Nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng Nhà máy này nằm ở xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh. Công nghệ áp dụng cho nhà máy là công nghệ bùn hoạt tính cải tiến. Giai đoạn I Giai đoạn II Giai đoạn III 824,8 ha 2.791,6 ha 2.791,6 ha Dân số (người) 425.830 1.421.778 1.390.282 Chất lượng nước thải sau xử lý 141.000 BOD(1) = 50 mg/L SS(2)= 100 mg/L 512.000 BOD = 50 mg/L SS = 100 mg/L BOD = 20 mg/L SS = 50 mg/L (1) BOD: Nhu cầu Oxy sinh học (2) SS: Chất lơ lửng Tổng vốn đầu tư cho giai đoạn 1 của nhà máy là 100 triệu USD, từ nguồn vốn ODA. Nhà máy chính thức hoạt động vào tháng 5 năm 2009 và xử lý nước thải Quelques projets se mettent en place dans différents districts d’HCMV : - projet d’assainissement des eaux du bassin Tàu Hủ - Bến Nghé – Đôi Tẻ, - projet d’assainissement du bassin Nhiêu Lộc – Thị Nghè, - projet de rénovation urbaine, - projet d’assainissement du canal Tham Lương – Bến Cát – Rạch Nước Lên, - projets dans le cadre de l’opération dans le bassin du canal Hàng Bàng. Au départ, ce projet était cofinancé par la Banque Asiatique de Développement qui a finalement retiré ses subventions, le projet ayant connu beaucoup de retard. La ville a donc repris en main ce projet en le divisant en plusieurs sous-projets. L’avancement de la planification des usines se décline comme suit : - usines en construction : • usine de traitement des eaux usées Tham Lương - Bến Cát (Bassin 8), • usine de traitement des eaux usées Nhiêu Lộc - Thị Nghè (Bassin 9). - neuf usines sont en attente d’investissement. Les formes d’investissement se concentrent essentiellement sur le BT ou le BOT avec des fonds provenant en grande partie d’aides publiques au développement. L’exemple de l’usine de traitement des eaux usées de Bình Hưng L’usine Bình Hưng se situe sur la commune de Bình Hưng au sein du district Bình Chánh. Le procédé appliqué au traitement des eaux usées dans cette usine est celui des boues activées. của các quận 1 và 3. Đơn vị vận hành nhà máy là Công ty thoát nước đô thị, Urban Drain Company (UDC). Capacité de traitement Superficie du bassin Population (hab) Capacité m3/jour Qualité de l’eau après le traitement Phase I 824,8 ha 425 830 141 000 BOD(1) = 50 mg/L SS(2)= 100 mg/L Phase II 2 791,6 ha 1 421 778 469 000 BOD = 50 mg/L SS = 100 mg/L Phase III 2 791,6 ha 1 390 282 512 000 BOD = 20 mg/L SS = 50 mg/L (1) BOD : Demande Biologique en Oxygène (2) SS : Matière en Suspension Le montant total d’investissement pour la phase 1 s’élève à 100 millions de dollars dont la source de financement pricipale provient de l’Aide Publique au Développement. La mise en service de cette station 78 • station de traitement des eaux usées Bình Hưng Hòa (ne fait pas partie de douze usines prévues). • usine de traitement des eaux usées Bình Hưng (Bassin 1), Công suất xử lý m3/ngày 469.000 2. Présentation de quelques projets mis en œuvre ou à venir - usines déjà construites : Công suất của nhà máy Diện tích lưu vực ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT date de mai 2009 et traite les eaux usées des districts 1 et 3. Celle-ci est exploitée et gérée par l’Urban Drain Company (UDC), société publique d’assainissement municipale. 79 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Tuyến thu gom và truyền tải Réseau de collecte et de transfert Trên tuyến cống bao chính có 10 giếng tách dòng. Tuyến cống bao nhánh có: - 14 giếng tách dòng - 05 hệ thống điều khiển Sơ đồ vận hành Sur le réseau d’égout principal, il existe dix puits de chute et sur le réseau d’égout secondaire, quatorze puits de chute et cinq systèmes de contrôle Schéma de fonctionnement Diện tích: 0,6 ha Công suất: + Giai đoạn 1: 141.000 m3/ngày + Giai đoạn 2: 496.000 m3/ngày (năm 2010) 80 81 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Bể lắng thứ cấp Bể sục khí Trạm xử lý nước thải Bình Hưng Hòa Trạm xử lý nước thải Bình Hưng Hòa nằm ở phường Bình Hưng Hòa, quận Bình Tân. Nước thải được xử lý bằng công nghệ sinh học với các hồ sục khí và hồ Diện tích lưu vực Bể cô đặc bằng trọng lực ổn định. Lượng nước thải được xử lý bao gồm 60% là nước thải sinh hoạt và 40% nước thải công nghiệp. Do đó, chất lượng nước đầu vào và đầu ra rất khác nhau. Công suất xử lý m3/ngày Bassin de décantation secondaire Bassin d’aération L’exemple de l’usine de traitement des eaux usées de Bình Hưng Hòa La station d’épuration Bình Hưng Hòa se situe dans le quartier de Bình Hưng Hòa dans le district de Bình Tân. Les eaux usées sont traitées grâce Bassin de condensation par gravité à une technologie biologique au sein d’un bassin d’aération et d’un bassin de stabilisation. La station traite 60 % d’eaux domestiques et 40 % d’eaux issus de l’industrie, ce qui engendre une qualité de l’eau variable à l’entrée de l’usine comme à sa sortie. Chất lượng nước thải sau xử lý Giai đoạn I 785 ha 30.000 Cột B QCVN 24/BTNMT Giai đoạn II 785 ha 46.000 Cột B QCVN 24/BTNMT Tổng mức đầu tư cho Trạm xử lý này là 8,09 triệu USD do Chính phủ Bỉ tài trợ. Trạm xử lý đi vào hoạt động từ tháng 6 năm 2006, do Công ty thoát nước đô thị TPHCM vận hành. 82 ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Surface du bassin de traitement Capacité m3/jour Qualité de l’eau après traitement Phase I 785 ha 30 000 Colonne B QCVN 24/BTNMT Phase II 785 ha 46 000 Colonne B QCVN 24/BTNMT Le montant total d’investissement correspond à une subvention belge qui s’élève à 8,09 millions de dollars. La mise en service de cette station date de juin 2006. Celle-ci est exploitée et gérée par l’UDC, société publique d’assainissement municipale. 83 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Hiệu quả xử lý Performance de traitement Critères Entrant Sortant Normes de traitement Les matières en suspension (SS) (mg/l) 100 – 250 22.5 100 Demande biochimique d'oxygène (BOD5) (mg/l) 100 – 200 25 50 80 Demande chimique en oxygène (DCO) (COD) (mg/l) 200 - 300 55 80 10 10 Ammonia (NH3) (mg/l) 25 - 70 10 10 7-8 5-9 pH 6,5 - 8 7-8 5-9 Đầu vào Đầu ra Tiêu chuẩn xử lý Chất rắn lơ lửng (SS) (mg/l) 100 – 250 22.5 100 Nhu cầu oxy sinh học (BOD5) (mg/l) 100 – 200 25 50 Nhu cầu oxy hóa học (COD) (mg/l) 200 - 300 55 Ammonia (NH3) (mg/l) 25 - 70 pH 6,5 - 8 Chỉ tiêu Trạm xử lý nước thải Bình Hưng Hòa Nhà máy xử lý nước thải Nhiêu Lộc - Thị Nghè Nhà máy xử lý nước thải Nhiêu Lộc - Thị Nghè hiện đang được nghiên cứu và theo quy hoạch sẽ được đặt tại xã Nhơn Đức – huyện Nhà Bè. Lưu vực xử lý: quận 1, 3, 10, Bình Thạnh, Gò Vấp, Phú Nhuận, Tân Bình. Công nghệ áp dụng cho nhà máy hiện cũng đang nghiên cứu. Công suất xử lý của nhà máy theo quy hoạch là 500.000 m3/ngày.đêm 84 Theo đề xuất nghiên cứu: 800.000 m3/ngày.đêm (kết hợp thêm khu vực khác). Tổng mức đầu tư dự kiến là 500 triệu USD với hình thức đầu tư dự kiến là BOT cùng với vốn ODA. Hiện nay, Quỹ hỗ trợ khu vực tư nhân dành cho các nước mới nổi (FASEP Pháp) đang tài trợ để thực hiện công tác nghiên cứu sơ bộ. Đơn vị nghiên cứu đề xuất nâng công suất lên và đạt khoảng từ 800.000 đến 850.000 m3/ngày.đêm và di dời địa điểm xây dựng sang khu vực quận 2. Station d’épuration Bình Hưng Hòa L’exemple de l’usine de traitement des eaux usées Nhiêu loc - Thi Nghè La station d’épuration Nhiêu loc – Thi Nghè, dont l’implantation est actuellement à l’étude, se situera, selon le plan d’aménagement sur la commune de Nhơn Đức – District Nhà Bè. Son bassin de traitement regroupera les districts 1, 3, 10, Bình Thạnh, Gò Vấp, Phú Nhuận et Tân Bình. Le procédé de traitement des eaux usées dans cette station est également à l’étude. Selon le plan d’aménagement, sa capacité sera de 500 000 m3/jour. Les prévisions sur le montant d’investissement sont de 500 millions USD. Il est envisagé de réaliser un contrat en BOT pour la construction de cette station, complété par un financement d’aides publiques au développement. Actuellement, le fonds d’aide au secteur privé réservé aux pays émergents (FASEP) finance l’étude de préfaisabilité du projet. Selon le bureau d’étude, la station d’épuration de Nhiêu loc – Thi Nghè pourrait s’implanter dans le district 2 près de Cát Lái et sa capacité de traitement des eaux pourrait s’élever à 800 000-850 000 m3/ jour. 85 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI 3. Một số khó khăn - Quy hoạch, tầm nhìn tổng thể chung chưa thống nhất và đồng bộ. Các mục tiêu thường thay đổi và đôi khi không tương thích với thực tế. Ví dụ : Khi nghiên cứu xây dựng các nhà máy xử lý nước thải, chỉ tính đến mức đỉnh triều là 1,33m, trong khi đó đỉnh triều thực tế đã ghi nhận được là 1,5m. - Nhiều hình thức huy động vốn đầu tư, dẫn đến sự phức tạp và khó điều phối. Hiện nay, có 3 nguồn vốn: • Vốn nhà nước, • Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): đây là nguồn vốn thường được sử dụng nhất, nhưng sẽ để lại nợ cho thế hệ tương lai. • Vốn tư nhân, thông qua các hình thức BOT, BT… - Tiến độ thực hiện các dự án: kéo dài dẫn đến tăng kinh phí đầu tư (một số nhà tài trợ đã quyết định rút tài trợ) và phát sinh các vấn đề khác. - Sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa các Sở, ban ngành (các chủ thể) là một trong những khó khăn lớn nhất. - Năng lực của tất cả các chủ thể có liên quan còn yếu. Các đơn vị chuyên môn của Việt Nam chưa đánh giá hết tính phức tạp của các dự án xử lý nước thải về mọi mặt. Việc chưa được đào tạo cũng ảnh hưởng đến tiến độ và việc vận hành các nhà máy, đặc biệt là khi nhà đầu tư chuyển giao về cho nhà nước quản lý. - Hiệu quả của các dự án đã đầu tư cần được đánh giá và cải thiện. Việc nước thải sinh hoạt bị pha loãng khi thủy triều dâng và khi mưa lớn là vấn đề thường gặp. - Đất đai cũng là một yếu tố cản trở sự phát triển của các dự án. Việc tái định cư người dân là vấn đề nhạy cảm và phức tạp cần quản lý dưới góc độ kinh tế - xã hội và thường là nguyên nhân gây chậm trễ tiến độ của các dự án. Nhận xét và trao đổi Ông Cluzeau: Có ba nhóm yếu tố gây cản trở: - Nhóm các yếu tố về cơ chế: ví dụ các vấn đề tài chính, - Nhóm các yếu tố về quản lý dự án, - Nhóm các yếu tố về quản lý công trình sau khi hoàn thành. TPHCM đang ở trong giai đoạn chuyển đổi với các thảo luận về giá nước. Ở Maroc cũng như ở Việt Nam, các dự án cấp nước không thể được đầu tư chỉ bằng vốn viện trợ. Chi phí, giá nước và quy mô của công trình là những yếu tố có liên hệ đồng bộ với nhau. Yếu tố quyết định giá trong tương lai chính là việc lựa chọn đầu tư cho thoát nước và xử lý nước thải. Hiện nay, người dân chịu việc này. Nếu giá dịch vụ không thay đổi, thì sẽ dùng nguồn lực nào để bù đắp cho các chi phí tăng thêm? Từ điện thoại di động? Từ thuế xi măng? Điều quan trọng hiện nay là tìm ra được cơ chế bù chéo giữa ngành nước vốn có thu không đủ bù chi và ngành khác có nhiều lợi nhuận. Có thể nghiên cứu điều này ở cấp quốc gia, dựa trên kinh nghiệm của TPHCM. Đây là vấn đề trọng đại vì nó xác định điều kiện đầu tư và chi phí khai thác, cả hai yếu tố này đều gắn với mức độ chất lượng dịch vụ. Yếu tố này cần được nghiên cứu đến ngay từ giai đoạn này đối với các dự án nhà máy xử lý nước thải hiện nay. Các công trình nhà máy xử lý nước thải dễ bị tổn thương, nên đòi hỏi phải bảo trì thường xuyên. Maroc là đất nước không có nguồn nước dồi dào, nên yêu cầu nước sau khi xử lý phải tái sử dụng được. Do đó, các nhà máy xử lý nước thải ở Maroc được đầu tư xây dựng với kinh phí cao hơn ở Việt Nam. Chi phí khai thác chiếm khoảng 10% chi phí đầu tư. Ví dụ : với một thành phố có 2.500.000 dân, thì nhà máy xử lý nước thải sẽ xử lý 200 lít/ngày/người, tương đương với 500.000 m3/ ngày, khi đó vốn đầu tư xây dựng là 400 triệu USD và chi phí khai thác là 40 triệu USD. Trong những năm tới, vấn đề sẽ đặt ra với TPHCM không những là kinh phí đầu tư mà còn là chi phí vận hành các nhà máy xử lý nước thải nữa. ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT 3. Difficultés rencontrées - La vision d’ensemble au niveau de la planification n’est pas cohérente. Les objectifs changent souvent et sont parfois non-compatibles avec la réalité. Il est prévu par exemple que la construction des stations prenne en compte la marée haute indiquée à 1,33 m maximum, or il a été observé qu’elle pouvait atteindre jusqu’à 1,5 m. - Les différents modes de financement sont compliqués à coordonner. Il existe actuellement trois modes de financement : • public, • prêts, aides publiques au développement (le plus utilisé mais suppose que les dettes soient léguées aux jeunes générations), • investissements privés BOT, BT. - Les retards importants dans la réalisation des projets entraînent des surcoûts (certains bailleurs de fonds finissent par retirer leurs subventions) et des difficultés supplémentaires. - La mauvaise coordination entre les acteurs, services et départements techniques d’HCMV constitue une des difficultés les plus importantes. - La faiblesse des compétences de l’ensemble des acteurs est en cause. En particulier celles des services vietnamiens qui ne sont pas suffisantes pour appréhender la complexité des projets de station d’épuration dans son ensemble. Ce manque de formation entrave l’avancée et le bon fonctionnement des projets, notamment lors des transferts de gestion de l’investisseur à la collectivité. - L’efficacité des projets doit être évaluée et améliorée. Des problèmes de dilution des eaux usées lors de montées des eaux des marées et des eaux pluies sont fréquemment rencontrés. - Le foncier est un frein au développement des projets. La question du relogement des populations est sensible et complexe à gérer d’un point de vue socio-économique et est souvent la source des retards accusés par la réalisation des projets. Remarques et échanges catégories de facteurs bloquants qui relèvent : - de blocages structurants tels que les problèmes de financements, - de la gestion de projet, - de l’intégration du projet dans l’entité de gestion finale. HCMV se trouve dans une phase de transition qui aborde le débat structurant du prix de l’eau. Au Maroc tout comme au Vietnam, le projet de distribution de l’eau ne peut pas être financé par des dons. Les ordres de coût, de prix ainsi que le dimensionnement des ouvrages sont cohérents en termes de valeur. HCMV ne se trouve pas dans une situation qui occulterait les véritables coûts. Le facteur d’avenir déterminant est celui du choix de financement de l’assainissement. Aujourd’hui la demande est relayée par la population. Si le prix du service ne peut pas changer, quel autre moyen peut venir compenser les surcoûts ? La téléphonie mobile ? La taxe sur le ciment ? Il s’agit aujourd’hui de trouver un moyen de réaliser une péréquation entre le secteur de l’eau à tendance déficitaire et un autre secteur à tendance bénéficiaire. Il semblerait alors intéressant et pertinent d’imaginer une réflexion pour tout le Vietnam au regard de l’expérience d’HCMV. Le sujet est majeur car il conditionne les investissements et le coût d’exploitation tous deux liés au niveau de qualité, de compétences et d’exigences. Il est primordial que ce sujet soit abordé maintenant pour les projets de STEP actuels. Les ouvrages d’assainissement sont des ouvrages fragiles et vivants qui exigent un entretien permanent car ils traitent du biologique. Le Maroc est un pays qui n’a pas de ressources en eau importantes. Ce pays exige que l’eau traitée soit réutilisable. De ce fait, les STEP au Maroc sont un peu plus chers. Le coût d’exploitation représente environ 10 % du coût d’investissement. Pour 2 500 000 d’équivalent habitants une station va traiter 200 l/jour/hab soit 500 000 m3/jour, pour 400 millions de dollars d’investissement et 40 millions de dollars d’exploitation. Le débat à poser dans les prochaines années à HCMV est celui de la prise en compte des coûts d’investissement d’une part et les coûts d’exploitation d’autre part. M.Cluzeau explique que l’on peut recenser trois 86 87 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Trên địa bàn Vùng đô thị Casablanca, có 2 nhà máy xử lý nước thải đang được nghiên cứu xây dựng, một ở phía Đông và một ở phía Tây. Hiện nay, có thể thải nuớc thải ra biển ở khu vực phía Tây (trừ nước thải công nghiệp) và tận dụng khả năng tự xử lý của biển. Nhà máy ở phía Đông hiện đang được xây dựng. Ở Casablanca, có 150 người làm việc ở các nhà máy xử lý nước thải với chi phí vận hành khoảng 30 triệu USD. Hỏi: Tiền ngân sách chiếm bao nhiêu % trong kinh phí vận hành nhà máy xử lý nước thải? Ông Cluzeau: Người sử dụng chịu mọi chi phí. Nhà nuớc có thể hỗ trợ đầu tư xây dựng, nhưng chi phí vận hành phải lấy từ người sử dụng để hệ thống được bền vững. Ông De Miras và Ông Cluezau nhấn mạnh: Dịch vụ xử lý nước thải không có lợi nhuận. Không nên nhầm lẫn các nghề với nhau và không nên giải quyết một vấn đề dài hạn bằng một giải pháp tức thời. Nghề làm dịch vụ về nước đòi hỏi phải có chuyên môn đặc biệt. Điểm mạnh trong mô hình ở Maroc là nhóm 3 ngành: cấp nuớc, thoát nuớc và cấp điện làm một, điều này giúp có thể bù chéo giữa các ngành (ngành điện bù cho ngành cấp nước). Hỏi: Công tác theo dõi, giám sát việc bù chéo giữa các ngành và chất lượng dịch vụ được thực hiện như thế nào? Cơ quan nào chịu trách nhiệm kiểm soát? Cơ quan nào kiểm tra chất lượng các công trình? Ông Cluzeau: Không nhất thiết phải có cơ chế kiểm soát việc bù chéo giữa các ngành vì kế hoạch đầu tư được trình bày hàng năm. Nếu chính quyền phê duyệt kế hoạch này, Lydec sẽ triển khai thực hiện. Hiện nay, 70% tổng chi phí nằm ở mảng cấp, thoát nước. Việc kiểm soát chủ yếu được thực hiện trong nội bộ vì Lydec là đơn vị khai thác mạng lưới. Do đó, Lydec phải nâng cao hiệu quả và hiệu suất hoạt động vì nếu thua lỗ thì công ty phải chịu trách nhiệm và gánh lấy các thiệt hại. Thành phố Casablanca cũng có một cơ quan gồm khoảng 10 người chịu trách nhiệm kiểm soát thường xuyên việc thực hiện kế hoạch đầu tư của Lydec. Thông qua việc kiểm soát đầu tư, Thành phố sẽ kiểm soát toàn bộ ngành: Nếu việc khai thác được thực hiện không tốt, thì phải thu hồi vốn đầu tư. Khách hàng kiểm soát chất lượng dịch vụ. Hỏi: Người dân ở các khu dân cư tự phát tiếp cận nguồn nước như thế nào và tổ chức việc thoát nước thải ra sao? Có chính sách bảo vệ nguồn nước ngầm không? Ở Maroc, có bao nhiêu hình thức đầu tư? Hỏi: Việc tính giá nuớc sinh hoạt ở Maroc dựa trên cơ sở nào? Có nhiều mức giá khác nhau không? Ông Cluzeau: Ở các khu dân cư tự phát, người dân tự khoan giếng và làm nhà vệ sinh tự hoại. Ở Maroc, có chính sách bảo vệ nguồn nước ngầm do nhà nước kiểm soát. Ông Cluzeau: Chính quyền địa phương quyết định khung giá trên cơ sở khung giá chung ở cấp quốc gia. Cần tìm kiếm sự cân đối tổng thể về tài chính nhờ vào việc gộp ba ngành như trên trong đó giá điện sẽ cao hơn, nhưng người dân có thể chấp nhận được. Hiện nay, thách thức ở Casablanca là phải mở rộng phạm vi cung cấp điện để đảm bảo tính bền vững cho các dịch vụ. Về đầu tư, ở Maroc, không có các hình thức đầu tư tương tự như ở TPHCM, không có nhà đầu tư xây dựng nhà máy xử lý nước thải. Ở Maroc, khi xây dựng một khu dân cư mới, nhà đầu tư phải xây dựng mạng lưới phù hợp với quy định và dưới sự kiểm soát của Lydec. Nhà đầu tư bất động sản không đầu tư vào lĩnh vực nước vì logic của hai ngành khác nhau: Thời gian hoàn vốn và thu lợi nhuận của dự án bất ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Sur le territoire du Grand Casablanca, deux STEP sont en projets à l’Est et à l’Ouest. Aujourd’hui il est possible d’envisager de refouler les effluents loin dans l’océan qui possède un excellent pouvoir épuratoire (sans présence de rejet industriel) pour la STEP à l’Ouest. La STEP qui se situe à l’Est, dans les terres, est en cours de construction. En revanche, dans ce cas de figure il est nécessaire de traiter les eaux usées car le risque de pollution est élevé. A Casablanca, chaque station compte 150 employés pour des frais d’exploitation qui s’élèvant à près de 30 millions de dollars. Un participant demande quelle est la part du budget public dans ces frais de gestion. M. Cluzeau répond que tous les coûts doivent être supportés par les usagers. L’Etat peut décider de baisser ce coût lorsqu’il aide à l’investissement mais les coûts d’exploitation doivent être supportés par le client pour que le système soit durable. Un participant propose de mettre en place un travail en partenariat avec les acteurs privés et évoque l’exemple de la route financée par des Coréens pour laquelle HCMV a, en contre partie, cédé un terrain. M. de Miras et M. Cluzeau insistent sur le fait que ce type de service n’est pas rentable. Il semble peu pertinent de faire appel au privé pour gérer de tels ouvrages. Il s’agit de faire attention à ne pas confondre les métiers et ne pas répondre aux problématiques de long terme par des solutions ponctuelles. Les métiers et services du secteur de l’eau requièrent une technicité spécifique. La force du système marocain est de regrouper les trois services que sont la distribution d’eau potable, l’assainissement et la distribution d’électricité ; ce qui permet de réaliser une péréquation puisque l’eau potable est financée par l’énergie. Un participant souhaiterait savoir sur quelle base, au Maroc, est calculé le prix de l’eau potable. Existe-t-il différents prix selon les fournisseurs ? M. Cluzeau précise qu’une fourchette de prix est décidée par les pouvoirs publics dans un cadre national. Il est recherché un financement globalement équilibré grâce au regroupement des activités de service en eau, d’assainissement et d’électricité qui 88 est plus chère mais accepté par la population. Ceci permet d’établir une péréquation. Le prix en valeur absolue diffère marginalement selon les contextes de chaque collectivité. Aujourd’hui, l’enjeu à Casablanca est d’augmenter et d’élargir le périmètre de la distribution d’électricité pour réaliser un service durable. Un participant s’interroge sur le suivi-contrôle de cette péréquation et de la qualité du service. Existe-til un organisme qui assure ce contrôle ? Qui contrôle la qualité des installations construites ? M. Cluzeau démontre qu’il n’est pas nécessaire de contrôler spécifiquement la péréquation des services entre eux car le plan d’investissement est présenté annuellement. Si les autorités le valident, Lydec réalise tout simplement le plan édicté. Aujourd’hui 70 % de la dépense va à l’assainissement et à l’eau. Le contrôle se fait en interne puisque Lydec est l’exploitant. Il incombe donc à Lydec de produire au plus efficient et au plus efficace, car en cas de faillite il revient à la société Lydec elle-même de payer, de supporter les dégâts. Un contrôle se fait en continu par un service de la ville de Casablanca. Ce service est constitué d’une dizaine de personnes dont le premier objectif est de contrôler la bonne réalisation du plan d’investissement par Lydec. La ville, en contrôlant les investissements, parvient à contrôler la chaîne : si l’exploitation est mauvaise il faut récupérer de l’argent sur l’investissement etc. Le client, lui, contrôle la qualité du service. Un participant souhaiterait savoir comment les habitants des quartiers non règlementaires s’approvisionnent en eau et s’organisent en matière d’assainissement liquide. Par ailleurs, existe-t-il une politique de protection des eaux souterraines ? Et enfin, au Maroc combien de formes d’investissements existe t-il ? M. Cluzeau décrit la situation dans les quartiers non règlementaires en expliquant que les habitants vont chercher de l’eau au puit et construisent des fosses septiques. Au Maroc, il existe bien une politique de protection des eaux souterraines contrôlée par les autorités. Concernant l’investissement, il n’existe pas de cas de figure similaire à celui d’HCMV avec des investisseurs construisant des STEP. La grande différence entre le 89 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI động sản khác với dự án đầu tư, khai thác một nhà máy xử lý nước thải. Ở Maroc, có 3 vùng có công ty tương tự như Lydec. Ở các vùng khác, các dịch vụ này do công ty nhà nước quản lý. Các công ty này kiểm soát việc xây dựng mạng lưới nhằm đảm bảo mạng lưới phù hợp với quy chuẩn và sau đó, họ có thể tiếp nhận để quản lý. Nhà đầu tư phải đóng thuế cơ sở hạ tầng1 như ở Pháp. IV. Dự án giảm thất thoát nước trong mạng lưới (Tổng công ty cấp nước Sài Gòn SAWACO) 1. Giới thiệu về Sawaco và mạng lưới cấp nước ở TPHCM ngày để cấp nước cho 7.123.000 dân của Thành phố. Hiện nay, tỉ lệ thất thoát nước trên toàn mạng lưới là 40%. Quy hoạch tổng thể ngành cấp nước ở TPHCM dự kiến tăng tổng công suất cấp nước lên 3.200.000 m3 nước/ngày. Để tiếp nhận lượng nước này, cần cải tạo 933 km đường ống và lắp đặt mới 2.775 km. Để đạt được các mục tiêu nên trên, SAWACO cần 4 tỉ USD vốn đầu tư. Hiện nay, Sawaco đang huy động tất cả các thành phần kinh tế tham gia, trong nước cũng như nước ngoài. Một hướng quan trọng là huy động các chủ thể tư nhân. Đã có nhiều dự án cấp nước có sự tham gia của tư nhân. Nhà máy nước Bình An sản xuất và bán sỉ cho Sawaco 100.000 m3/ngày. Nhà máy này đã đi vào hoạt động và do một đơn vị của Malaysia khai thác dưới hình thức BOT cho giai đoạn 1998 - 2018. Nhà máy nước Thủ Đức sản xuất và bán sỉ cho Sawaco gần 300.000 m3 nước/ngày, nhà máy được đầu tư và khai thác dưới hình thức BOO. 2. Dự án giảm thất thoát nước Dự án giảm thất thoát nước được thực hiện dưới hình thức quan hệ đối tác công tư, phía đối tác tư nhân là công ty Manila Water, Philippine. Sawaco là công ty TNHH một thành viên, 100% vốn nhà nước và là công ty cấp nước lớn nhất Việt Nam. Chương trình giảm thất thoát nước chủ yếu được các nhà tài trợ quốc tế, đặc biệt là Ngân hàng thế giới hỗ trợ. Trong tổng số 4.200 km đường ống cấp nước chính ở TPHCM, 700 km được lắp đặt cách đây hơn 30 năm. 1.500.000 m3 nước được bơm vào mạng lưới mỗi 1 Thuế cơ sở hạ tầng được xác lập theo Luật định hướng đất đai số 67-1253 ngày 30 tháng 12 năm 1967. Theo đó, các chủ đầu tư dự án bất động sản phải đóng thuế này cho chính quyền địa phương để góp phần cùng địa phương xây dựng cơ sở hạ tầng (đường giao thông, hệ thống thoát nước, trường học….) nhằm đáp ứng nhu cầu của dự án. Thuế này áp dụng cho các dự án phát triển, việc cải tạo, và mở rộng công trình xây dựng. Hiện nay, tỉ lệ thất thoát nước là 40% chủ yếu là do mạng lưới đường ống quá cũ. Mục tiêu là hạ tỉ lệ này xuống còn 25 % (mục tiêu này được xác định trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quốc gia cho giai đoạn 2011-2015). ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Vietnam et le Maroc dans le cas de la réalisation d’un lotissement ou d’un nouveau quartier par exemple, réside dans le fait que le lotisseur investit et réalise les réseaux en conformité avec les règles du service public, sous le contrôle de Lydec. L’investisseur n’a pas le droit de produire de l’eau. Il existe une séparation entre le distributeur de l’eau et de l’utilisateur. En effet, l’investisseur immobilier ne possède pas le même temps de retour sur investissement que l’investisseur qui réalise et exploite un ouvrage d’assainissement. Trois régions au Maroc sont gérées par des sociétés comparables à celle de Lydec. Les autres régions sont gérées par des sociétés publiques. L’ensemble de ces sociétés contrôlent de près toutes les réalisations de réseaux afin que ces réseaux soient bien aux normes et puissent être repris en gestion par les sociétés de service en charge de la distribution de l’eau potable ou de l’assainissement. Les lotisseurs doivent par ailleurs payer une taxe à la participation aux équipements, (Taxe Locale d’Equipement -TLE1 en France). IV. Projet de réduction des fuites d’eau au sein du réseau de la société générale d’approvisionnement en eau de Saïgon (société SAWACO) 1. Présentation de Sawaco et du réseau de distribution d’eau potable à HCMV Actuellement, le taux de perte d’eau sur l’ensemble du réseau s’élève en moyenne à 40 %. Le Schéma directeur à l’horizon 2025 pour l’approvisionnement en eau de HCMV prévoit d’augmenter sa capacité de pompage à 3 200 000 m3 d’eau/jour. Pour ce faire, 933 km de tuyaux doivent être réhabilités et 2 775 km doivent être installés. Pour atteindre ces objectifs, la société a besoin d’un financement de 4 milliards de dollars. Sawaco cherche à réunir ces fonds en faisant appel à tous les acteurs économiques du pays ainsi qu’à l’étranger. Une piste très importante est celle des acteurs privés. Il existe déjà plusieurs projets de distribution d’eau qui font appel au secteur privé. L’usine Binh An, produit et vend 100 000 m3 d’eau/jour en gros à Sawaco. Cette usine a été réalisée et est actuellement gérée par un investisseur malaisien (Water Supply Company) sous forme de BOT sur une période prévue entre 1998 - 2018. L’usine Thu Duc, produit et vend en gros à Sawaco près de 300 000 m3 d’eau/jour. Il s’agit d’un investissement Water Supply Joint Stock Company sous forme de BOO. 2. Le projet de réduction des fuites d’eau Le projet de réduction de perte en eau prend la forme d’un partenariat public-privé avec la société Manila Water, société philippine. Ba mục tiêu được đưa ra trong dự án này: - Chia mạng lưới của Sawaco ra thành 6 vùng để dễ quản lý, - Giảm tỉ lệ thất thoát nước, - Nâng cao năng lực quản lý mạng lưới. La société Sawaco Saigon Water Supply Corporation est une société publique. Il s’agit de la société générale des eaux la plus importante au Vietnam. Le programme de réduction des fuites d’eau est essentiellement financé par les bailleurs de fonds, notamment la Banque mondiale. 1 La Taxe locale d'équipement (ou TLE) est une taxe, instituée par la loi d'orientation foncière n° 67-1253 du 30 décembre 1967 au profit de la commune qui peut être due en France à l'occasion d'opérations de constructions immobilière, afin de l'aider à financer les équipements (routes, assainissement, écoles...) induits par l'urbanisation. La taxe sera demandée sur toute opération de construction, reconstruction et l’agrandissement des bâtiments de toute nature . 90 Sur les 4 200 km de réseau principal de distribution d’eau à HCMV, 700 km ont été installés il y a plus de trente ans. 1 500 000 m3 d’eau/jour sont pompés à travers ce réseau pour alimenter les 7 123 000 habitants de la ville. Le taux de perte en eau de 40 % sur le réseau de distribution d’eau est essentiellement dû à la vétusté de celui-ci. L’objectif est de réduire ce taux de perte à 25 %, objectif énoncé dans le plan national de développement socio-économique pour 2011-2015 (SEDP). Dans le cadre de ce projet, trois objectifs majeurs ont été établis : - définir six zones du réseau de Sawaco pour en faciliter la gestion, - réduire le taux de perte d’eau, - augmenter les compétences de gestion du réseau. 91 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Bản đồ chia vùng mạng lưới của Sawaco Découpage du réseau de Sawaco en six zones KHU VÖÏC 3 KHU VÖÏC 4 ZONE 3 ZONE 2 KHU VÖÏC 2 ZONE 1 KHU VÖÏC 1 KHU VÖÏC 6 KHU VÖÏC 5 Công ty Manila Water đảm trách thực hiện dự án ở vùng 1 và Sawaco ở vùng 2. Điều này giúp so sánh các phương pháp thực hiện và tìm được giải pháp tốt nhất để giảm thất thoát nước trên toàn mạng lưới. Hợp đồng dựa trên hiệu quả giảm thất thoát nước đã được ký kết. Hợp đồng này yêu cầu đơn vị thực hiện cải thiện khả năng cấp nước trên mạng lưới và giảm một cách bền vững tỉ lệ thất thoát nước. Ý tưởng chính của hợp đồng này là đơn vị thực hiện phải chịu trách nhiệm về việc thất thoát nước trong mạng lưới. Tỉ lệ thất thoát nước càng giảm thì thù lao mà công ty Manila Water nhận được càng cao. Đơn vị thực hiện có thể áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết để giảm tỉ lệ thất thoát nước. Rủi ro trong hợp đồng này là đơn vị thực hiện đưa ra tỉ lệ nước thất thoát đã giảm được nhiều hơn trên thực tế để được trả công cao hơn. Do đó, Sawaco đã mời đơn vị độc lập để kiểm toán kết quả mà công ty Manila Water đưa ra. Tuy nhiên, ở Việt Nam, đơn vị có khả năng đáp ứng được yêu cầu 92 ZONE 4 của loại hợp đồng này vừa thiếu về số lượng và vừa yếu về chất lượng. 3. Khó khăn mà công ty Manila Water gặp phải khi triển khai dự án ở Vùng 1 Các yếu tố chính trong hợp đồng với Manila Water như sau: - Thiết lập các DMA (District Meter Area), - Đảm trách quản lý mạng lưới và giảm thất thoát nước, - Mở rộng mạng lưới để đáp ứng các nhu cầu mới (lắp đặt đồng hồ nước,…) - Phản ứng nhanh trước các sự cố ngoài dự kiến. Hợp đồng cũng dự kiến Manila Water chuyển giao năng lực và công nghệ cho Sawaco khi kết thúc hợp đồng. Một điểm mới trong hợp đồng này là Manila Water phải đưa ra các phương pháp, trang thiết bị ZONE 6 ZONE 5 L’opérateur philippin assure le suivi de la zone 1 et Sawaco celui sur la zone 2 ce qui permettra de comparer les méthodes et de trouver la meilleure solution d’éradication des pertes sur l’ensemble du réseau. Une nouvelle forme de contrat basée sur la performance a vu le jour. Elle exige désormais de l’opérateur qu’il améliore les capacités d’approvisionnement en eau sur le réseau et qu’il diminue de manière durable les pertes d’eau. L’idée forte dans ce contrat est que l’opérateur est alors payé sur la base des réductions de perte d’eau réalisées sur le réseau. Plus la diminution est importante, plus la société philippine reçoit de l’argent. L’opérateur possède une marge de manœuvre assez large pour innover et peut réaliser tous les travaux qu’il juge nécessaire pour diminuer le taux de perte. Dans ce système, le risque est alors que l’opérateur surestime les volumes de pertes d’eau réduits afin d’augmenter sa rémunération, c’est pourquoi une tierce compagnie est engagée par Sawaco pour auditer les résultats de l’entreprise philippine. Néanmoins, les acteurs privés capables de répondre à ce type de contrat au Vietnam sont qualitativement faibles et quantitativement insuffisants. 3. Difficultés rencontrées au sein du projet de la zone 1 assuré par Manilia Water Les principaux éléments du contrat sont les suivant : - établir les zones DMA (District Meter Area), - assurer la gestion du réseau et la diminution des pertes, - élargir le réseau pour répondre à la nouvelle demande (installation des compteurs d’eau…), - intervenir d’urgence sur les travaux imprévus. Le contrat prévoit que l’opérateur transmette ses compétences et ses technologies à Sawaco lors de la rétrocession. Un nouveau point dans ce contrat précise que l’opérateur doit également fournir les méthodes, les équipements et machines nécessaires à la réduction des fuites dans le réseau. 93 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI và máy móc cần thiết để giảm thất thoát nước trong mạng lưới. Hợp đồng cũng dự kiến cơ chế phạt trong trường hợp công ty Manila Water không thực hiện được các cam kết về mục tiêu giảm thất thoát nước. Tuy nhiên, cũng có một số khó khăn gắn liền với việc thực hiện hợp đồng, đặc biệt là việc công ty Manila Water thuê lại các công ty Việt Nam để thực hiện các công việc tại chỗ. Công ty Manila Water chỉ đưa chuyên gia sang và sử dụng công nhân Việt Nam. Điều này có thể dẫn đến một số khó khăn như sau: - Chất lượng của công nhân, - Trao đổi giữa chuyên gia và công nhân vì hai bên không nói cùng một ngôn ngữ, không có cùng văn hóa và cách làm. Điều kiện thi công cũng là một vấn đề khó vì chỉ thi công vào ban đêm trong khoảng thời gian từ 22h đến 5h sáng. Thay đổi về quy định, chờ được cấp giấy phép đào đường, quản lý trượt giá trong suốt thời gian hợp đồng…là những khó khăn cần kể đến. Ngoài ra, việc điều phối giữa Sawaco, các đơn vị thi công và người dân cũng gặp nhiều khó khăn. Trước năm 2005, Sawaco có thể điều phối dễ dàng bằng cách ra lệnh cho các công ty con. Nhưng từ năm 2005, các công ty này đã được cổ phần hóa và trở thành các công ty độc lập, sở hữu một phần mạng lưới. Do đó, Manila Water khi can thiệp vào mạng lưới của các công ty này phải có sự điều phối, hợp tác của họ. Đôi khi, các công ty này không cung cấp bản đồ mạng lưới cho Sawaco và Manila Water. Điều này làm cho công tác giảm thất thoát nước càng khó khăn. Một khó khăn nữa là đồng hồ nước nằm ở trong nhà dân, điều này làm chậm tiến độ thực hiện vì cần phải có sự hiện diện và thiện chí hợp tác của người dân. Nhận xét và trao đổi Ông Cluzeau: Ghi nhận hai yếu tố chủ yếu cần suy nghĩ sâu: - Hình thức hợp đồng, - Yếu tố kỹ thuật gắn với tình hình thực tế. Sau khi nghe phần trình bày của Sawaco, Ông Cluzeau nhấn mạnh các chủ thể ở TPHCM đã nhìn nhận đúng đắn về mạng lưới hiện nay. Tuy nhiên, việc giao cho đơn vị nước ngoài giải quyết vấn đề chưa hẳn là cần thiết. Cần phân biệt rủi ro thực với rủi ro gắn với việc xác định các hành động. Ở bất kỳ thành phố nào trên thế giới, việc thi công trên mạng lưới cũng được thực hiện vào ban đêm để giảm tác động lên các hoạt động ban ngày. Đơn vị đặt hàng càng dành nhiều thời gian trao đổi, đặt vấn đề với các chủ thể khác, thì hành động của họ sẽ càng có hiệu quả và hiệu suất cao hơn để giải quyết các vấn đề trên thực địa. Ông Cluzeau: Các mạng lưới cấp nước đến người tiêu dùng có thuộc sở hữu của Sawaco không ? Đơn vị nào sở hữu mạng lưới này và họ được thanh toán như thế nào? Sawaco là công ty mẹ và có 8 công ty con, là các công ty cấp nước ở các địa phương. Nguồn thu của các công ty này là từ việc bán nước cho người tiêu dùng. Đại diện của Sawaco: Luật và các quy định trong lĩnh vực cấp nước ở Việt Nam chưa chính xác và còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Mỗi nơi, mỗi cấp áp dụng luật và quy định theo cách hiểu của mình mà không có sự phối hợp với các bên có liên quan. Ngoài ra, ở Việt Nam, rất hiếm khi có trường hợp kiện chủ thể công pháp ra tòa hành chính. Ông Cluzeau: Việc có nhiều điểm chưa rõ ràng trong luật và quy định cũng như việc mỗi chủ thể áp dụng luật theo cách hiểu của mình và theo hướng có lợi cho mình nhất diễn ra ở tất cả các nước. Trách nhiệm của chính quyền là làm rõ những điểm còn mập mờ. Ở Maroc, Công ty Lydec tổ chức việc quản lý thực hiện hợp đồng với sự phối hợp của các chủ thể nhà nước và địa phương. Hợp đồng của Lydec có 850 trang. ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Le contrat prévoit également des mécanismes de pénalité dans le cas où l’opérateur ne parvient à répondre à ses engagements concernant ses objectifs de réduction de fuites d’eau. Par ailleurs, il existe certains risques et difficultés inhérents au contrat et au travaux, notamment au regard de l’opérateur philippin qui doit recruter des entreprises vietnamiennes pour effectuer les travaux sur place. Pour ce faire, il vient avec ses cadres et emploie des ouvriers vietnamiens, ce qui peut poser des difficultés : - de qualification des ouvriers, - de communication car les cadres et les ouvriers ne parlent pas la même langue, ne partagent pas la même culture et les mêmes pratiques. Les conditions d’interventions posent également problème car les travaux ne peuvent se faire que la nuit durant un laps de temps très court entre 22 h et 5 h du matin. Les changements qui interviennent dans les règlements, l’attente que demande la délivrance des permis d’intervention sur la chaussée ainsi que la gestion de l’inflation pendant le période du contrat sont également sources de complications. La prise en compte de la coordination entre les clients, Sawaco et les opérateurs représente une difficulté supplémentaire majeure. En effet, avant 2005 Sawaco pouvait coordonner facilement, en donnant des ordres à ses filiales. Mais depuis 2005, cellesci ont été privatisées et sont devenues des sociétés indépendantes propriétaires de certaines parties du réseau de distribution. Ainsi, Manilia Water intervient sur le terrain d’autres sociétés ajoutant un échelon de coordination et de coopération. Il arrive que ces filiales ne mettent pas toujours les plans à disposition de Sawaco ou de Manilia Water, ce qui rend la tâche encore plus complexe. Un autre obstacle dû au fait que les compteurs d’eau se trouvent à l’intérieur des maisons ralentit les opérations qui nécessitent la présence et le bon vouloir des habitants. Remarques et échanges M. Cluzeau a retenu deux éléments clés sur lesquels il est important de travailler bien en amont : 94 - les formes de contrats, - l’aspect technique lié à la situation. D’abord, M. Cluzeau souligne, à travers la présentation, la grande lucidité de ses interlocuteurs vietnamiens sur la situation des réseaux. Cependant, il estime qu’il n’est pas nécessaire de déléguer la résolution des problèmes en externe. Il s’agit de faire la différence entre les risques réels et les risques liés à la mauvaise définition des actions demandées. Par ailleurs, toute ville qui se veut internationale travaille de nuit afin d’impacter le moins possible les activités durant le jour. Plus le commanditaire passe de temps avec les opérateurs à poser de bonnes bases et de bons jalons en amont, plus l’ensemble des acteurs gagne en efficacité et efficience pour résoudre les problèmes sur le terrain. M. Cluzeau demande confirmation de sa bonne compréhension en résumant la situation comme suit : le réseau de distribution public-privé n’appartient pas à Sawaco qui est un producteur d’eau en gros. Qui paie et comment sont payées les entreprises de distribution ? Un représentant de Sawaco répond que la loi et les règlements ne sont pas assez précis en matière de service de distribution de l’eau au Vietnam. Beaucoup de zones d’ombre et de flou persistent. Chaque autorité et chaque acteur applique la loi et les règlements selon sa propre compréhension et interprétation des textes, sans coordination avec les autres. Par ailleurs, au Vietnam, il est extrêmement rare de déposer plainte au tribunal administratif en cas de défaillance d’un des acteurs publics. Sawaco constitue la société mère et possède des sociétés locales qui constituent des filiales au nombre de huit. Ces sociétés sont rémunérées grâce à vente de l’eau. M. Cluzeau indique qu’il existe, dans tous les pays, des zones de brouillard dans les textes et que chaque acteur les interprète à son avantage. Il est de la responsabilité de l’autorité de clarifier ces zones de flou, pour éviter toute confusion des rôles et des responsabilités. Par exemple, il convient d‘éviter que les zones grises du contrat ne conduisent Sawaco à réaliser des tâches dont elle n’a pas toute la responsabilité, situation juridiquement risquée pour la société. 95 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Bà Hoàng Thị Kim Chi: nhà nước không thể thực hiện được hết những gì Ông Cluzeau trình bày: - một mặt, mỗi công ty con có địa bàn riêng tương ứng với địa giới hành chính, nhưng không tương ứng với vùng cấp nước; - mặt khác, số lượng đồng hồ tổng hiện chưa lắp đặt đủ cho mỗi công ty, điều này dẫn đến khó khăn cho việc xác định tỉ lệ thất thoát nước ở mỗi khu vực. Đại diện Sawaco: Các công ty cấp nước ở địa phương không muốn ký hợp đồng với Sawaco vì giá nước quá thấp. Giá nước được điều chỉnh 4 năm một lần. Ông Cluzeau: Không nên có cách nhìn tiêu cực về công việc cần thực hiện sắp tới. Nếu các cán bộ, chuyên viên của các sở, ban ngành không quyết tâm, thì điều đó chính là một yếu tố cản trở. Các bạn đã có ý tưởng, năng lực để giải quyết vấn đề. Những nhận định đã được trình bày là nền tảng để chúng ta suy nghĩ sâu hơn. Bước tiếp theo là rút ra phương pháp và huy động nguồn lực thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Một hợp đồng tốt giữa các cơ quan công với nhau hoặc giữa cơ quan công với tư nhân trước hết cần ưu tiên xác định rõ các thuật ngữ được sử dụng trong hợp đồng. Ở Việt Nam, cũng như ở tất cả các nước trên thế giới, giá nước là vấn đề trung tâm. Việc nghiên cứu tìm kiếm các giải pháp tài chính là hết sức quan trọng. Trước mắt, kế hoạch hành động cần dựa trên nguồn tài chính sẵn có. Sau đó, cần làm việc với chính quyền các cấp để tìm các nguồn tài chính khác nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, thiết lập cơ chế bù chéo giữa các ngành. Quy trình này rất dài và nặng nề, nhưng cần thiết, đặc biệt là trong bối cảnh phát triển đô thị năng động hiện nay ở TPHCM. Ở Maroc, giá nước cũng thay đổi rất ít trong vòng hơn 10 năm. Các giải pháp chủ yếu dựa vào vốn hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, trợ cấp của chính phủ và việc bù chéo giữa các ngành. Học viên: Ở Việt Nam, ngành điện cũng không có lời, do đó không thể bù cho ngành nước. Ông Cluzeau: Cần tìm ngành phù hợp để bù cho ngành nước. Có thể, trích lợi nhuận từ ngành viễn thông (điện thoại di động) để bù cho ngành nước. Ngoài ra, cần nghiên cứu giảm chi phí và giải quyết các vấn đề liên quan đến hợp đồng cũng như quan hệ với khách hàng: Có nhất thiết phải lắp đặt đồng hồ nước bên trong nhà dân hay không? Việc lắp đồng hồ nước ở bên ngoài sẽ giúp giảm một số rủi ro và chi phí cho Sawaco. Pháp đã tiến hành việc đưa đồng hồ nước ra ngoài tòa nhà. Điều này có hai tác dụng tích cực: - Giảm chi phí và có thể can thiệp vào đồng hồ, đường ống mà không cần sự có mặt của chủ nhà, - Tạo việc làm cho người lắp đặt đồng hồ nước. ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Une méthode consiste à bien définir en amont les termes employés pour limiter autant que possible toute interprétation. Il s’agit de passer des contrats de confiance et de performance entre Sawaco et les entreprises de distribution. Ensuite, le choix se porte sur le cadre qui permettra d’atteindre cette performance (PPP, BOT…).Sans une clarification et une bonne définition du périmètre de travail, aucune gouvernance du contrat n’est possible. L’opérateur qui connaît le terrain et fait face quotidiennement aux difficultés opérationnelles dispose des connaissances les plus précises pour définir le contenu de ce type de contrat. L’acteur public doit donc avoir une connaissance au moins aussi fine pour établir les termes du contrat et doit veiller à consolider et actualiser cette connaissance y compris lorsque l’activité est déléguée à l’opérateur privé. Entre Sawaco et les entreprises de distribution, il s’agit de passer des contrats de confiance et de performance. Ensuite, le choix se portera sur le cadre qui permettra d’atteindre cette performance (PPP, BOT…). Mme Kim Chi s’interroge sur le fait que la force publique ne parvient pas à réaliser ce que M. Cluzeau vient d’exposer : - d’une part, chaque société possède son propre territoire correspondant à une aire administrative, mais ne correspondant pas aux zones du plan d’assainissement ; - d’autre part, il n’existe pas suffisamment de compteurs d’eau pour connaître exactement le volume d’eau acheté par chaque société, ce qui crée une grande difficulté pour mesurer le taux de perte effectif dans chaque zone. Un représentant de Sawaco explique à son tour que face au faible prix de l’eau, les sociétés locales sont réticentes à signer des contrats avec Sawaco, d’autant qu’elles sont censés entretenir le réseau, réparer les fuites sans budget dédié à cette activité. Le prix de l’eau est actualisé et mis à jour tous les quatre ans. Pour M. Cluzeau. Toutes les réponses aux problèmes sont là : les compétences comme les idées, etc. Ce constat global constitue un immense atout et une bonne base de la réflexion pour construire la 96 prochaine étape qui consiste à dégager la méthode et les moyens à mettre en place pour atteindre les objectifs. Un bon contrat public-public ou public-privé doit en priorité définir précisément les termes du contrat. Dans ce cadre, la question du prix de l’eau est centrale et de ce qu’il permet de financer. Travailler à trouver des solutions permettant de financer les investissements et les innovations nécessaires est primordial. Le plan d’action doit ainsi consister dans un tout premier temps à trouver des solutions pour travailler les ressources financières à disposition. Puis, dans un deuxième temps, il s’agit de travailler avec les autorités sur la recherche d’autres financements pour améliorer le service, pour éventuellement créer des passerelles entre les services afin de mettre en place une péréquation. Le processus législatif est lourd et long mais inévitable, spécialement dans le contexte de dynamique urbaine que connaît aujourd’hui HCMV. Si des réformes profondes doivent effectivement être menées, HCMV ne peut attendre que le cadre législatif ait d’abord évolué pour faire évoluer son service. Elle peut d’ores et déjà entreprendre des mesures de modernisation et d’amélioration pour rendre le service plus performant et crédibiliser sa démarche Le prix de l’eau a très peu évolué au Maroc en plus de dix ans. Les solutions ont été puisées auprès des aides internationales, des subventions de l’Etat ou de compléments de financement grâce à d’autres services. Toutefois, ces changements s’anticipent. Aujourd’hui, Lydec demande à contrôler un périmètre de réseaux électriques plus large afin d’augmenter ses revenus. Ce changement sera peut-être effectif dans cinq ou ans dix ans. Un participant annonce qu’au Vietnam le secteur de l’électricité n’est pas plus subventionné que le secteur de l’eau. M. Cluzeau insiste sur le fait qu’il s’agit de trouver le domaine qui convient. Peut-être qu’il est possible de dégager des bénéfices à travers les sms dans la téléphonie mobile. Il est également important de traquer les niches de réduction des coûts et de traiter la problématique du contrat et de relation avec les clients : Sawaco doit-il nécessairement être 97 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Mỗi chủ thể phải thực hiện đúng vai trò của mình: nhà đầu tư làm công việc đầu tư, các chuyên gia kỹ thuật làm về kỹ thuật,…Quản lý/điều hành cũng là một nghề chuyên môn. Cần giải quyết từng vấn đề một trong từng giai đoạn, không nên có tham vọng giải quyết tất cả các vấn đề cùng một lúc. Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi. Cơ quan hành chính đang chuyển đổi, từ việc cán bộ chuyên môn, chuyên viên kỹ thuật thực hiện công việc theo chỉ đạo của lãnh đạo, sang việc đề xuất các giải pháp mới cho lãnh đạo để vượt qua các thách thức. Mô hình từ trên xuống đã thay đổi ở nhiều nước. Cần lắng nghe những người có chuyên môn từ thực tế ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT công việc để tìm ra giải pháp. Mục tiêu là giúp cho các nhà lãnh đạo có cách nhìn sát với thực tế hơn. Kiên trì đề xuất các hướng giải quyết vấn đề lên các cấp lãnh đạo là một công việc dài hơi, nhưng không thể thiếu. responsable des réseaux installés à l’intérieur des parcelles privatives ? Ne pas l’être permettrait de diminuer certains risques et donc certains coûts pour Sawaco. Xác định lại phạm vi thuộc khu vực công và phạm vi thuộc khu vực tư La France a lancé, il y a plusieurs années déjà, une campagne visant à extraire les compteurs d’eau et d’électricité du domaine privé pour les rendre accessibles depuis le domaine public. Cette démarche a eu deux effets : Ở Việt Nam, một trong các thách thức hiện nay là xác định lại quy chế khu vực công và khu vực tư. Dành thời gian nghiên cứu chủ đề này và đạt được sự thống nhất về trách nhiệm của các bên là rất cần thiết. - diminuer les coûts pour les services publics qui peuvent désormais intervenir plus rapidement sans attendre la présence du propriétaire de la maison ; - créer de l’emploi pour les plombiers qui installent les compteurs. Il n’existe pas de fatalité, chaque acteur doit tenir son rôle : les financiers financent, les techniciens font de la technique, etc. De la même manière, la gouvernance est un métier en soit. Il s’agit de prendre chaque chose en son temps et de ne pas vouloir résoudre tous les problèmes de front. Sơ đồ khu vực công TRƯỚC ĐÂY: NHÀ NƯỚC = khu vực công Le Vietnam se trouve à un tournant. L’administration du pays passe d’une culture dans laquelle les dirigeants édictaient aux cadres et techniciens ce qu’ils devaient faire vers une culture dans laquelle ces mêmes cadres et techniciens ont désormais le devoir et la place de proposer des solutions innovantes pour sortir de l’impasse. Le modèle hiérarchique descendant est révolu. Cette transition est valable dans de nombreux pays. Il s’agit d’écouter les personnes compétentes qui connaissent le terrain pour en tirer parti. L’objectif de ce travail est de permettre aux décideurs d’être au plus proche des réalités opérationnelles. Persévérer auprès des décideurs en leur présentant des pistes de sortie de problèmes est un travail de longue haleine mais indispensable. La redéfinition du domaine public, un changement structurel indispensable Un des enjeux sera de redéfinir un statut du domaine public et privé au sein du domaine public, considéré ici au Vietnam comme un bien commun dans son ensemble. Le terrain reste propriété du peuple. Prendre le temps de poser le sujet et se mettre d’accord sur ce qu’est le passage du domaine collectif vers une responsabilisation est capital. Schéma du domaine public AVANT : ETAT = domaine collectif NGÀY NAY: ĐẤT = sở hữu công "xã hội hóa" Khu vực công: Tài sản tư: - Trụ sở hành chính - Bệnh viện - Trường học ... Tài sản công: - Đường xá - Cầu - Vườn hoa công cộng ... Khu vực tư nhân: - Buôn bán - Nhà cửa ... AUJOURD’HUI : Terrain = propriété collective Domaine public : Bien privé : - Locaux administratifs - Hôpitaux - Écoles… 98 Bien public: - Voirie - Ponts - Jardins publics -… « socialisation » Domaine privé : - Commerces - Maisons -… 99 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Sau khi xác định rõ khuôn khổ và phạm vi thuộc khu vực công, phạm vi thuộc khu vực tư, nhà nước sẽ dễ hành động hơn và áp đặt các quy định đối với các công trình xây dựng trong khu vực công. Việc xác định rõ tài sản nào thuộc khu vực công, tài sản nào thuộc khu vực tư sẽ giúp xác định được chủ thể nào phải chịu chi phí nào. Vấn đề này thuộc phạm vi quản lý/điều hành, chứ không thuộc phạm vi kỹ thuật. Quan hệ đối tác công - tư chỉ có hiệu quả khi ta xác định rõ các điều khoản và đồng thời suy nghĩ theo hướng làm thế nào cho nó hiệu quả hơn. Ông de Miras: Phương pháp và tính minh bạch giúp giải quyết một số khó khăn nêu trên. Điều hành đô thị là một công cụ giúp đạt được các mục tiêu đã đề ra. Cần thay đổi nhận thức về mặt thể chế. Ông Cluzeau: Công tác điều hành, quản lý đòi hỏi cần có sự lạc quan, tính kiên trì và trí tuệ. Các nhà lãnh đạo nhiều khi cần được hỗ trợ và tư vấn nhiều hơn chúng ta nghĩ. Học viên: Dường như rất khó để huy động tài chính. Có mô hình nào trong việc huy động tài chính không? và trong những lĩnh vực nào? Ông de Miras: Lĩnh vực bất động sản không gặp khó khăn gì khi huy động tài chính và mang lại lợi nhuận. Lĩnh vực công về bản chất là những lĩnh vực không có lợi nhuận. Những lĩnh vực có lợi nhuận, ví dụ điện thoại di động, nhanh chóng trở thành lĩnh vực hàng hóa và không còn nằm trong lĩnh vực công nữa. Do đó, ta có thể xác định một trong những đặc tính của dịch vụ công là khả năng có lợi nhuận rất thấp. ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Dịch vụ công không nhất thiết phải do các chủ thể công thực hiện. Tuy nhiên, chủ thể tư nhân cần phải tôn trọng khái niệm dịch vụ công. Ở Pháp, dịch vụ công phải đảm bảo tính liên tục và sự bình đẳng khi tiếp cận dịch vụ của mọi người dân. Nhà nước có thể quyết định không xem một lĩnh vực nào đó thuộc dịch vụ công và chuyển nó sang dịch vụ hàng hóa vào bất cứ lúc nào. Do đó, khi nhà nước ủy thác một dịch vụ công cho tư nhân, thì nhà nước cần phải đảm bảo dịch vụ đó đáp ứng được các yêu cầu của dịch vụ công. Cần phân biệt: Une fois clairement établie, cette règle ou cette définition permettra la mise en place de prérogatives selon les acteurs et leur domaine d’intervention. Il sera alors plus facile pour la force publique, grâce à ce cadre d’intervention absolu, d’imposer la mise aux normes des ouvrages réalisés dans le domaine public. En définissant précisément les terrains et éléments qui relèvent des biens publics ou privés du domaine public, il sera plus simple de déterminer quels sont les coûts qui doivent être pris en charge et par quel acteur. - đơn vị khai thác: là đơn vị chuyên nghiệp, có năng Cette question relève ici de la gouvernance et non du domaine technique. Le partenariat public-privé n’est efficace que si l’on définit les termes le plus précisément possible tout en réfléchissant à comment le rendre efficace. lực chuyên môn trong lĩnh vực mình khai thác. - nhà đầu tư: chỉ tìm kiếm lợi nhuận. Cần xác lập cơ chế san sẻ tài chính giữa các ngành: - Nhà nước kiểm soát các phương thức tài chính, - Vốn hỗ trợ phát triển từ bên ngoài. Chú ý: việc sử dụng vốn hỗ trợ phát triển không phải là giải pháp bền vững mà các quốc gia mong muốn. Tài chính cho dịch vụ công không thể dựa vào nguồn vốn ngày càng cạn kiệt, càng hiếm và càng khó tiếp cận. Việt Nam không thể vướng vào vòng xoáy này vì nó sẽ làm ảnh hưởng đến chủ quyền và sự độc lập về kinh tế của quốc gia. Các khoản hỗ trợ chỉ nên sử dụng để điều chỉnh cơ cấu ngành. Cần có suy nghĩ sâu thêm để quản lý nợ công và hướng đến tính bền vững về tài chính. - Vay nợ là một cách để có vốn ngay lập tức. - Khi một khu vực được trang bị mạng lưới hạ tầng, thì giá trị của đất ở đó sẽ tăng lên. Làm thế nào để nhà nước thu hồi được phần nào giá trị này? M. de Miras souligne à son tour qu’être dans la méthodologie et la transparence des problèmes qui se posent permet de résoudre un grand nombre de difficultés. La gouvernance urbaine est un outil méthodologique qui permet d’aboutir aux objectifs posés. Le volet institutionnel implique les autorités pour faire évoluer la prise de conscience. Le partenariat avec l’autorité doit se traduire par des formes de suivi et de contrôle du contrat avec par exemple la création d’instances d’échanges telles qu’un comité de réflexion ou de pilotage. Une telle formalisation du processus favorise une réflexion et une vision transversale et partagée. M.Cluzeau insiste à nouveau sur le bien-fondé de la gouvernance qui nécessite de l’optimisme, de la persévérance et de l’intelligence. Il précise également que les décideurs politiques attendent très souvent de l’aide et des conseils pour évoluer. Le Vietnam entame son passage d’une économie subventionnée à une économie bénéficiant d’un appui ponctuel de l’aide internationale. Ceci exige de passer à l’étape supérieure qui est celle de la gouvernance : dépasser les questions de financement et de techniques pour aujourd’hui prioriser les objectifs et les actions. Un participant spécifie qu’il semble difficile de mobiliser des financements. Existe-t-il des modèles de mobilisation de budget et dans quels domaines ? M. de Miras expose que le domaine immobilier par exemple n’a aucun problème pour se financer et arrive à dégager des marges excédentaires. Or ici, nous nous trouvons confrontés au secteur du service public qui par essence n’est pas rentable. Les 100 services qui sont rentables échappent au domaine public rapidement, comme la téléphonie mobile par exemple. Les services rentables deviennent très vite des services marchands. Une des définitions que l’on pourrait attribuer au service public est sa difficulté à être rentable. M. de Miras remarque par ailleurs que le service public ne relève pas nécessairement des acteurs publics. Toutefois, les acteurs privés doivent respecter la notion de service public. En France, le service public est défini par la continuité et l’égalité d’accès au service à tous les usagers. A tout moment, l’Etat peut choisir d’arrêter de considérer un service comme public en le remettant dans le domaine du service marchand. Ainsi, lorsque l’autorité délègue un service public, elle doit s’assurer que le niveau de service répond correctement à celui qu’exige la définition préalablement posée du service public. Il faut bien distinguer : - l’opérateur : professionnel aux compétences spécifiques, - et l’investisseur : « requin » qui chasse la finance. Il est nécessaire de mobiliser un système de péréquation et/ou des financements : - l’Etat contrôle les différents modes de financement, - l’aide publique internationale constituant une aide externe à l’Etat. Attention, l’aide au développement n’est pas une solution de souveraineté durable et souhaitable pour un pays quel qu’il soit. Une économie de service public ne peut pas être fondée sur un financement qui se tarie et devient de plus en plus rare et difficile d’accès. Il faut craindre la menace de perfusion économique. Le Vietnam ne peut pas s’inscrire dans cette spirale qui reflèterait un échec de souveraineté et d’indépendance économique. L’aide doit être permise et utile pour accompagner et permettre un changement structurel et ponctuel. Il s’agit par ailleurs de réfléchir immédiatement à une vision, une réforme de fond afin de gérer l’endettement et tendre vers un financement durable, - l’endettement est une manière de disposer de fonds dans l’immédiat. Attention, le prêt bancaire n’est pas un financement, - les plus-values foncières constituent des valeurs qui doivent intéresser l’implantation des réseaux. Comment capter cette manne financière ? 101 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Học viên: Tham nhũng cũng làm một yếu tố cản trở bước tiến của dịch vụ công. Mức độ tham nhũng ở Pháp và ở Maroc như thế nào và tác động của nó ra sao? Ông Cluzeau: xin được phép không phát biểu về tham nhũng ở Pháp hay ở Maroc. Nhưng dù ở mức độ nào đi chăng nữa, thì tham nhũng cũng là yếu tố cản trở. Việc đưa ra các cơ chế quản lý, điều hành sẽ giúp ngăn chặn tình trạng này. Tuy nhiên, cần cảnh giác vì đôi khi một số sai lầm về kinh tế hay về chiến lược dẫn đến phải trả giá đắt hơn cả tham nhũng. Một báo cáo không tốt dẫn đến các hành động không xác đáng sẽ làm mất thời gian và tiền bạc giống như do tham nhũng gây ra. Cần nghiên cứu mọi vấn đề. Ông de Miras: Quản trị/điều hành tốt là một nhân tố tối quan trọng cho sự phát triển. Chống tham nhũng là một phần của quản trị tốt, nhưng nó không phải là nhân tố trọng tâm của sự phát triển. Việc các định chế quốc tế xem chống tham nhũng như là nhân tố trung tâm của sự phát triển là hết sức chính đáng, nhưng nó không giúp giải quyết các vấn đề và khó khăn mà dịch vụ công gặp phải. ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Le travail de récupération d’une partie de cette manne revient à la charge du Comité Populaire. La question de la solidarité est ici posée. Replacer le débat dans une problématique de service public est essentiel, sinon le service retombe sous le coup du service marchand, intrinsèquement inégalitaire face à la distribution. Un participant s’interroge sur la corruption qui selon lui constitue un frein caché à l’avancée des services publics. Quelle est l’ampleur de ce phénomène en France et au Maroc et quels sont les impacts ? M. Cluzeau ne souhaite pas se prononcer sur l’ampleur de la corruption en France ou au Maroc. Effectivement quelle qu’elle soit, elle nuit. La mise en place de mécanismes de gouvernance permet typiquement de combattre ce genre de pratiques. 102 Toutefois une grande vigilance s’impose car parfois des erreurs économiques ou stratégiques coûtent aussi chères que la corruption qui, elle, est connue. Un mauvais rapport qui oriente sur des actions non pertinentes est autant source de perte de temps et d’argent que la corruption. Il s’agit de se poser toutes les questions. M. de Miras explique qu’une bonne gouvernance est un facteur de développement indispensable. Lutter contre la corruption fait partie de la bonne gouvernance, mais ce n’est pas un facteur central de développement. La lutte contre la corruption comme facteur de développement central, qui est surtout véhiculé et porté par les institutions internationales, a sa légitimité mais ne fait pas avancer les problèmes et les difficultés rencontrés par les services publics ici débattus. 103 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT PHẦN 3 – TỔNG HỢP, CÁC YẾU TỐ CẦN SUY NGHĨ VÀ KHUYẾN NGHỊ PARTIE 3 – SYNTHÈSE, ÉLÉMENTS DE RÉFLEXION ET RECOMMANDATIONS I. Tổng hợp I. Synthèse Sự phát triển năng động của Maroc và Việt Nam là cơ sở cho các buổi thảo luận, trao đổi kinh nghiệm về công tác điều hành, quản lý dịch vụ cấp nước và xử lý nước thải ở đô thị. Vài thông số sau đây cho thấy sự tương đồng giữa hai nước. La dynamique d’émergence qui caractérise identiquement le Maroc et le Vietnam justifie une présentation croisée et un échange d’expériences dans le domaine de la gouvernance des services urbains de l’eau et de l’assainissement. Nước Việt Nam Ma rốc 85 triệu dân 35 triệu dân 2900 USD 4600 USD 5,90% 4,90% 113 114 Hà Nội (gần 6 triệu dân) Dân số GDP bình quân đầu người năm 2009 Tốc độ tăng trưởng năm 2009 Chỉ số phát triển con người (trong bảng xếp hạng thế giới) Thủ đô Trung tâm kinh tế Quy chế Phía Pháp và Maroc đã trình bày về kinh nghiệm Vùng Casablanca, trung tâm kinh tế của Maroc, trong công tác giảm nhà ở lụp xụp và cung cấp các dịch vụ cơ bản như nước sinh hoạt, xử lý nước thải và điện cho khoảng 1 triệu người nghèo và người có thu nhập thấp. Đầu tiên, Ông Claude de Miras, nhà kinh tế học, Giám đốc nghiên cứu của Viện nghiên cứu vì sự phát triển, trình bày một số khái niệm lý thuyết về điều hành đô thị và sự điều phối hoạt động của nhiều chủ thể. Các tiếp cận này nhấn mạnh đến đặc thù của lĩnh vực cấp nước sạch và xử lý nước thải vì nó có tác động mạnh đến vấn đề đất đai và có mối liên hệ mật thiết với nhà ở xã hội. Bối cảnh ở Casablanca và Dự án "Sáng kiến 104 Quelques indicateurs structurels attestent d’une certaine symétrie entre les deux pays. Vietnam Maroc 85 millions d’habitants 35 millions d’habitants 2900 USD 4600 USD Taux de croissance 2009 5,90% 4,90% Rabat (hơn 1 triệu dân) Indicateur du Développement Humain (rang mondial) 113ième 114ième TPHCM (8 triệu dân) Casablanca (5 triệu dân) Capitale politique Thành phố trực thuộc trung ương Thành phố thuộc Vùng quốc gia vì sự phát triển con người ở Maroc là hai ví dụ minh họa cho cách tiếp cận này. Sau đó, Ông Abderrhaman Ifrassen, Tổng giám đốc công ty Ijmad Sakan trình bày về công tác xóa nhà lụp xụp và các điều kiện tiếp cận nhà ở xã hội và các dịch vụ cơ bản như cấp nước, xử lý nước thải cho 75.000 hộ tái định cư trong chung cư hoặc bằng nền đất có đầy đủ cơ sở hạ tầng trong Vùng Casablanca. Bài trình bày thứ ba là của Ông Christophe Cluzeau, Giám đốc Dự án INDH-INMAE của Công ty Lyonnaise des Eaux de Casablanca, nói về phương pháp và kết quả của chương trình giữ 85.000 hộ tại các khu vực phát triển không theo quy hoạch và cung cấp các dịch vụ điện, nước sạch và xử lý nước thải cho các hộ này. Pays Population PIB ppa /Habitant 2009 Capitale économique Hanoi Rabat (près de 6 millions d’habitants) (plus de 1 million d’habitants) Hô Chi Minh Ville (8 millions d’habitants) Casablanca (5 millions d’habitants) Ville/Province Ville/Région Statut La partie française et marocaine a présenté le cas de la région du Grand Casablanca, capitale économique du Maroc, en matière de réduction d’habitat insalubre et de raccordement aux réseaux d’eau, d’assainissement et d’électricité pour la frange la moins favorisée de la population, soit un million d’habitants. Une première présentation proposée par Claude de Miras, économiste directeur de recherche de l’Institut de Recherche pour le Développement, a porté sur la notion théorique de gouvernance urbaine et la coordination multi-acteurs. Cette approche a insisté sur les spécificités dans ce domaine de la distribution de l’eau potable et de l’assainissement par son impact foncier et sa relation avec la problématique de l’habitat social. Elle a été illustrée par le contexte de Casablanca et du Projet d’Initiative Nationale pour le Développement Humain du Maroc. Une seconde intervention, délivrée par Abderrhaman Ifrassen, Directeur Général de Ijmad Sakan a porté sur l’éradication des bidonvilles et les conditions d’accès à l’habitat social et aux services essentiels en eau et assainissement pour 75 000 ménages en cours de relogement (dans des appartements) ou de recasement (terrain viabilisé) dans la Région du Grand Casablanca. Une troisième intervention, proposée par Christophe Cluzeau, Directeur du Projet INDH-INMAE de la Lyonnaise des Eaux de Casablanca, a présenté 105 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Các ví dụ ở Maroc và những nét tương đồng trong thực tế và trong mục tiêu giữa Maroc và Việt Nam ở lĩnh vực quản lý cấp nước và xử lý nước thải đã thu hút sự quan tâm của các học viên tham dự khóa học. Điều này thể hiện qua các trao đổi tích cực, sôi nổi và chuyên sâu trong khóa học. Có thể liệt kê một số điểm chính sau: 1) Thực trạng: Trong bối cảnh đô thị hóa nhanh chóng và sự gia tăng mạnh về nhu cầu dịch vụ cơ bản (nước uống được, xử lý nước thải và nước mưa), về nâng cấp cơ sở hạ tầng đô thị với yêu cầu hội nhập xã hội và bảo vệ môi trường, bài trình bày đầu tiên đưa ra các nhận định về tình hình và các điểm yếu trong ngành cấp nước và xử lý nước thải : ví dụ, nhu cầu vốn đầu tư, giảm thất thoát nước trong đường ống và nước không doanh thu, tiếp cận dịch vụ cấp nước và xử lý nước thải,… Cách tiếp cận này đề cập về khía cạnh kỹ thuật và trang thiết bị, là kết quả của hành động, chứ không đề cập đến các nguyên nhân và khó khăn cần phải kiểm soát. 2) Khó khăn: Rất nhiều. Tính cấp bách của việc ra quyết định ở đô thị, mật độ đô thị, chậm trễ trong cải tạo và phát triển mới mạng lưới, gia tăng nhanh số lượng dự án, phân tán hoặc trùng lắp nhau giữa các dự án, chồng chéo trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước, nhiều công việc phải đảm nhận và nhiều cơ quan nhà nước tham gia quản lý, hành động của nhà nước chủ yếu theo ngành và đơn lẻ, khác với thực tế đô thị đan xen và phụ thuộc lẫn nhau, mạng lưới hạ tầng kỹ thuật có tác động mạnh đến vấn đề đất đai, nhiều nguồn vốn đầu tư và kéo theo đó là nhiều tiêu chuẩn kỹ thuật, sự rút lui của các nhà tài trợ do sự chậm trễ của các cơ quan hành chính… là những yếu tố tuy có nhiều tính chất khác nhau nhưng đều tác động đến quy trình ra quyết định và hành động. Trong bối cảnh đó, các điều kiện triển khai thực 106 hiện một quyết định là trọng tâm của thảo luận, dù trong bất kỳ mảng nào: điều phối, đánh giá, tổng kết và điều tiết. Đây là những mảng không thể thiếu trong mọi kế hoạch hành động. - Điều phối đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ và thỏa hiệp trong không gian và thời gian, giữa các quyết định và can thiệp của các bên có liên quan cùng hành động trong một chương trình hoặc dự - án. Đánh giá là so sánh, vào lúc cuối dự án, các kết quả đạt được với các mục tiêu đã đề ra lúc ban - đầu trên cả phương diện hiệu quả lẫn hiệu suất. Tổng kết nhằm rút ra kinh nghiệm và đánh giá chúng, và rút ra các bài học chiến lược vượt ra - ngoài khuôn khổ của dự án. Điều tiết, đối với chính quyền, là theo dõi, song hành và nếu cần thiết thì điều chỉnh các định hướng ban đầu cho phù hợp với tình hình thực tế. Các kết luận này về bản chất có mới không ? Các vấn đề này có được đề cập và suy nghĩ đến ở TPHCM không ? Dù sao, những khó khăn dai dẳng này cũng chứng minh rằng các giải pháp đã đưa ra là chưa đủ và cần tìm kiếm thêm những hướng mới để giải quyết tốt hơn những vướng mắc gặp phải. 3) Các thảo luận trong khóa học giúp đề ra hai hướng suy nghĩ như sau: - Cần phải định nghĩa lại các khái niệm cơ bản để chắc chắn rằng chúng ta đang nói về cùng một vấn đề - Cần xác định lại các phương hướng chiến lược dựa trên việc tổng kết các kinh nghiệm đã có. Về vấn đề này, kinh nghiệm của nước ngoài là hữu ích, nhưng chỉ dưới khía cạnh phương pháp tổ chức sự phát triển đô thị hơn là nhập khẩu các công thức sẵn có được cho là đã áp dụng thành công ở một nơi nào đó nên có thể giải quyết được những khó khăn mà ở đây đang gặp phải. ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT la méthodologie et les résultats du programme de maintien sur place de 85 000 ménages des quartiers non règlementaires du Grand Casablanca et de leur raccordement aux réseaux d’eau, d’assainissement et d’électricité. A l’évidence, l’exemple marocain et des similitudes de situations et d’objectifs entre le Maroc et le Vietnam dans le domaine de la gestion en eau et assainissement ont suscité l’intérêt de l’assistance de l’atelier, si l’on en croit la densité et le niveau des échanges. On peut les classer de la façon suivante : 1) Les symptômes : dans un contexte d’urbanisation rapide, de croissance forte des besoins de services en réseaux (eau potable, assainissement et eaux pluviales) et de mise à niveau des infrastructures urbaines, avec des exigences d’intégration sociale et d’équilibre environnemental, une première approche consiste à sérier les multiples constats et déficiences immédiates du secteur de l’eau et de l’assainissement : il s’agit par exemple des besoins de financement des investissements, la réduction des pertes physiques et commerciales, la mise à niveau de l’assainissement, l’accès généralisé aux services d’eau et d’assainissement, etc. Cette liste est descriptive, non hiérarchisée et non limitative. Cette approche porte sur des aspects techniques et matériels sectoriels qui sont les conséquences d’une situation, mais elle n’aborde pas les causes et les difficultés préalables à maîtriser. 2) Les contraintes : elles sont multiples. L’urgence de la décision, la densité urbaine, l’importance des retards accumulés en matière de renouvellement ou de création des réseaux, le foisonnement des « projets », leur dispersion ou leur superposition territoriale, l’enchevêtrement des responsabilités institutionnelles, l’entassement des tâches assumées et des chantiers ouverts par les entités publiques responsables, une action publique très sectorisée et segmentée face à une réalité urbaine imbriquée et interdépendante, le fort impact foncier de l’implantation des réseaux, la multiplication des offres de financements et leurs conséquences sur la multiplication des standards techniques, le retrait des bailleurs face aux retards des administrations sont autant de facteurs de nature très diverse qui pèsent sur le processus de décision et donc d’action. Dans cette perspective, les conditions de mise en œuvre d’une décision efficace sont au centre du diagnostic, quels que soient les domaines considérés : la coordination, l’évaluation, la capitalisation et la régulation sont des dimensions indispensables à intégrer dans tout plan d’action : - la coordination renvoie à la nécessité de synchronisation, de concertation et d’anticipation, dans le temps et dans l’espace, des décisions et des interventions des différentes parties prenantes agissant dans une opération ou sur un projet. - l’évaluation consiste à comparer, en fin de projet, les résultats effectifs aux objectifs initiaux en termes d’efficacité et d’efficience. - la capitalisation revient à tirer des différentes expériences et de leur évaluation, des enseignements stratégiques qui dépassent le cadre d’un projet. - la régulation consiste pour les pouvoirs publics à suivre, accompagner et, si nécessaire, à infléchir des orientations initiales en fonction de données nouvelles, jugées déterminantes. Mais ces conclusions sont-elles fondamentalement nouvelles ? Des réflexions antérieures n’ont-elles pas déjà abordés à HCMV ces questions ? En tout cas, la permanence de ces difficultés tendrait à montrer que les réponses retenues n’ont pas été suffisantes et qu’il est donc nécessaire, dans une seconde approche, d’explorer d’autres directions pour expliquer la persistance des blocages rencontrés. 3) Une troisième approche sous forme de recommandations Des approximations relevées au cours des débats dans certaines formulations laissent voir deux pistes de réflexions possibles : - la nécessité de redéfinir des notions de base pour s’assurer que l’on parle bien de la même chose, fondamentalement, la nécessité de redéfinir des perspectives stratégiques en partant de la capitalisation des expériences déjà menées. A cet égard, les apports extérieurs peuvent être utiles mais plutôt sous la forme d’un appui méthodologique de conception et d’organisation du développement urbain qu’à travers l’importation de recettes prêtes à l’emploi, qui auraient prétendument fonctionné là et qui pourraient mécaniquement représenter la solution aux difficultés rencontrées ici. - plus 107 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Sự phát triển đô thị không phải là một sản phẩm vật chất được tạo ra nhờ vào công thức thiết kế và sản xuất công nghiệp theo kiểu xếp các thành phần nguyên liệu lại với nhau theo một công thức đã được xác định trước. Sự phát triển đô thị là một quá trình điều chỉnh phức tạp giữa mục tiêu, nguồn lực, bối cảnh xã hội ở địa phương và cả nước cũng như sự cân bằng giữa các biến động. Để thực hiện điều này, trước tiên cần có phương pháp kết hợp việc lập dự án tổng thể với việc cụ thể hóa dự án trong từng ngành và liên ngành, huy động các phương tiện, theo dõi và đánh giá dự án. Cần phải phân biệt rõ phương tiện và mục đích: ví dụ, xã hội hóa là một phương tiện chứ không phải mục đích. Do đó, cần xác định thật chính xác các nội dung và mục tiêu của xã hội hóa và kiểm tra hiệu quả của xã hội hóa để xây dựng các công cụ phù hợp. Tương tự, sự gắn kết giữa các vấn đề về nhà ở, mạng lưới cấp nước và xử lý nước thải phải được chú trọng và vượt lên trên quan điểm tách rời 3 mảng: cấp nước sạch, xử lý nước thải và nhà ở. II. Nhắc lại định nghĩa các thuật ngữ và làm rõ các thách thức Một số khái niệm cần được xem xét kỹ lại để nghiên cứu, suy nghĩ về chiến lược. Ví dụ, khái niệm dịch vụ công cần được suy nghĩ kỹ: Dịch vụ cấp nước và xử lý nước thải có giống như các dịch vụ khác không? Các tác động tích cực (sức khỏe và vệ sinh môi trường được cải thiện, chất lượng môi trường, tính hấp dẫn của địa bàn) và tiêu cực , nhu cầu tự nhiên (uống và vệ sinh), việc tiếp cận dịch vụ kể cả đối với người nghèo ở đô thị, tính tương trợ giữa các ngành là những khía cạnh cần được xem xét trong các vấn đề về nước và nước thải cũng như trong việc lựa chọn các giải pháp thực hiện. Dĩ nhiên, không có một định nghĩa duy nhất về khái niệm dịch vụ công. Nhưng, cũng phải có những điều kiện về kinh tế và xã hội về việc tiếp cận các dịch vụ này: mức độ và chất lượng dịch vụ như thế nào? với mức giá như thế nào? và việc phân chia các chi phí ra sao? Tương tự, hoạt động trong lĩnh vực cấp nước và xử lý nước thải có phải là hoạt động dịch vụ như các dịch vụ khác không? Một "nhà đầu tư" có thể tham gia vào 108 lĩnh vực cấp nước, xử lý nước thải mà chỉ dựa vào các tiêu chí về lợi nhuận không? Các chuyên môn về kỹ thuật và thương mại, tư duy lợi nhuận trong dài hạn, năng lực tài chính vững chắc nên là những yếu tố cần phải cân nhắc khi chọn nhà đầu tư tư nhân tham gia vào lĩnh vực này để họ có thể đáp ứng các điều kiện sách. Đơn vị tư nhân tham gia vào lĩnh vực này không thể chỉ dựa trên động cơ duy nhất là lợi nhuận. Đơn vị hoạt động trong lĩnh vực này phải có chuyên môn kỹ thuật về cấp nước và xử lý nước thải được áp dụng trong lĩnh vực dịch vụ công và gắn kết chặt chẽ với bối cảnh đô thị và thể chế. Đây không phải chỉ là việc lắp đặt đường ống với chi phí thấp nhất và thu được lợi nhuận cao nhất trong ngắn hạn. Nước sạch và xử lý nước thải là những dịch vụ công và không thể được coi là ngành có lợi nhuận trước mắt. Mặc dù một số việc đặc thù có thể mang lại lợi nhuận, nhưng không vì thế mà lại giao chúng cho các nhà đầu tư tư nhân ngoài khuôn khổ kiểm soát vì phải tính đến việc điều phối toàn diện trên địa bàn (giá dịch vụ, tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng, môi trường…). Cách tiếp cận theo ngành, tách rời ngành xử lý nước thải với ngành điện cả về mặt tổ chức lẫn kinh tế, làm cho chính quyền không hình thành được kinh tế bậc thang và cản trở việc chia sẻ tài chính giữa ngành có lợi nhuận (ngành điện) và ngành thu không đủ bù chi (xử lý nước thải). Điều này đặt ra vấn đề về tài chính sẵn có hoặc có thể huy động được để trang trải cho các chi phí về đầu tư hoặc vận hành dịch vụ. Làm thế nào để tổ chức mối quan hệ đối tác với các đơn vị tư nhân? Trong tình hình kinh tế của Việt Nam, khái niệm xã hội hóa có thể là một hướng đi. Nhưng, với tình hình hiện nay, chính sách xã hội hóa có tạo ra một khuôn khổ quan hệ đối tác và khung pháp lý vững chắc cho các đơn vị tham gia vào dịch vụ công chưa? Có vẻ như vẫn còn nhiều điều chưa rõ trong khái niệm xã hội hóa và dường như có mong muốn đưa xã hội hóa thành mục đích. Do đó, cần xem xét thật kỹ các khái niệm BOT, BOO, đối tác công tư, cổ phần hóa, nhượng giao, khoán, hợp đồng khai thác, công ty công tư hợp doanh, công ty nhà nước hoạt động theo luật tư, công ty liên doanh, thị trường công, tư nhân hóa… Đối với từng khái niệm cần phải cân nhắc, phân tích các thuận lợi và bất lợi, các điều kiện triển khai thực hiện tùy theo mục tiêu, thời gian, phương tiện tài chính sẵn có và có thể huy động. Ví dụ: việc thanh toán cho nhà đầu tư tư nhân dựa trên lượng nước thất thoát giảm được bị ràng buộc bởi giá nước thấp và lãi suất cao. ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Le développement urbain n’est pas un produit matériel que l’on fabrique grâce à une ingénierie de type industriel qui juxtaposerait les ingrédients prescrits par des recettes préétablies. Le développement urbain est un processus complexe d’ajustements entre des objectifs, des ressources, un contexte sociétal local et national et des équilibres dynamiques. Cela suppose avant tout une méthode qui combine conception d’un projet global, ses déclinaisons sectorielles et intersectorielles, la mobilisation de moyens, son suivi et son évaluation. Il faut nettement distinguer les moyens et la fin : par exemple, la socialisation est un moyen et non pas une fin en soi. Il s’agit donc d’en définir précisément les différents contenus possibles, les objectifs assignés et d’en vérifier l’efficacité pour forger des outils adaptés. De même, l’articulation entre les problématiques de l’habitat et celles des réseaux en eau et assainissement doivent l’emporter sur une vision segmentée qui sépare nettement eau, assainissement et habitat. II. Rappel de définitions, stabilisation du vocabulaire et clarification des enjeux Certaines notions méritent d’être revisitées pour engager une réflexion stratégique. Par exemple, la notion de service public pose certaines questions : Les services d’eau et d’assainissement sont-ils des services comme les autres ? La forte production d’externalités positives (santé et hygiène publiques améliorées, qualité environnementale, attractivité des territoires) et négatives qui les caractérise, le besoin naturel (boisson et hygiène) auquel ils répondent, l’accès généralisé qu’ils supposent y compris pour les couches urbaines pauvres, la solidarité plus ou moins active qu’ils nécessitent (par péréquation, transferts ou fiscalité) sont autant de facettes de la problématique de l’eau et de l’assainissement qu’il faut considérer dans le choix des solutions à mettre en œuvre. Certes, il n’y a pas une définition unique de la notion de service public mais il y a lieu d’expliciter les conditions d’accès social et économique à ces services : en clair, quels niveaux et quelles qualités de service, pour quels groupes sociaux et à quels prix et selon quelle répartition des coûts ? De même, les « métiers de l’eau et de l’assainissement » sont-ils des activités de services comme les autres ? Un « investisseur » peut-il entrer indifféremment dans le BTP ou dans les « métiers de l’eau et de l’assainissement » en fonction de seuls critères de profitabilité ? Le savoir-faire technique et commercial spécifique, la rentabilité de long terme, l’indispensable assise financière, n’obligent-elles pas à sélectionner des intervenants privés spécialisés et disposant de solides références afin qu’ils soient en mesure d’assumer le cahier des charges qui leur sera proposé ? L’opérateur privé ne peut se limiter à une motivation d’investisseur, fondée sur le seul retour sur investissement. L’opérateur est le représentant d’un savoir-faire technique en eau et assainissement particulier, appliqué à un domaine spécifique de services publics, et encastré dans des contextes urbains et institutionnels propres. Il ne s’agit pas d’enfouir des tuyaux au moindre coût et avec le maximum de profit à court terme. L’eau potable et l’assainissement en tant que service public ne peuvent pas être considérés comme un secteur de rentabilité immédiate. Que des segments spécifiques puissent faire l’objet d’investissements rentables ne justifient pas nécessairement qu’ils soient confiés à des investisseurs privés hors d’une régulation contractuelle car se pose la question des coordinations interterritoriales de tous ordres (tarifs, standards techniques, qualité, environnement, etc.). L’approche sectorisée et étanche, séparant institutionnellement et économiquement les métiers de l’eau de l’assainissement et de l’électricité, prive la collectivité de certaines économies d’échelle et empêche les financements croisés ou les transferts des secteurs structurellement excédentaires (électricité) vers les métiers généralement déficitaires (assainissement et pluviale). Cette observation pose la question des financements disponibles ou potentiels susceptibles de couvrir les coûts d’équipement ou de fonctionnement des services. Comment s’organiseront les partenariats avec ces compétences privées ? En matière de capital social des entreprises au Vietnam, la notion de socialisation est une option possible. Mais en l’état, la socialisation offre-t-elle un cadre partenarial et juridique robuste pour les firmes de services publics ? Le flou qui semble régner autour de la notion de socialisation et son caractère volontariste semble en faire une fin en soi. Il est sans doute utile de suggérer de regarder plus attentivement les notions de BOT, BOO, de PPP, d’actionnarisation, de concession, d’affermage, de contrat d’exploitation, de contrat de management, de société d’économie mixte, de société publique de droit privé, de joint-venture, de marchés publics, de privatisation, etc. Il conviendrait d’en peser à chaque fois les avantages et inconvénients, les conditions de mise en œuvre selon les objectifs, la durée, les moyens de financements disponibles et à mobiliser. 109 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Ngoài việc nghiên cứu điều tiết mối quan hệ hợp tác với khu vực tư nhân, cần nghiên cứu thêm hai vấn đề sau: - Tổ chức lại mối quan hệ giữa công ty mẹ - SAWACO và các công ty con (dựa trên hợp đồng hiệu quả công việc ?). - Không để cho nhà đầu tư phải chịu mọi khó khăn. Hợp tác với khu vực tư nhân không có nghĩa là đẩy hết các khó khăn về phía tư nhân. Mà trước hết, khu vực công phải giải quyết các khó khăn chính thuộc về tổ chức, thể chế. Sau đó, khu vực tư nhân sẽ tham gia vào mảng kỹ thuật và thương mại trong mối quan hệ đối tác với chính quyền. Để tăng tính hấp dẫn và đạt được hiệu quả, việc mời gọi sự tham gia của khu vực tư nhân cần được thực hiện với tính minh bạch cao giữa các bên: tình trạng của dịch vụ cần chuyển giao (giá trị tài sản cố định, tình trạng mạng lưới, các khó khăn); phía tư nhân cũng cần nói rõ về năng lực và các hoạt động tiêu biểu mà mình đã thực hiện. Việc che giấu của bất kỳ bên nào cũng đều làm mất cân đối hợp đồng và ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện hợp đồng. Hợp đồng không nhằm để đẩy hết những khó khăn mà đơn vị nhà nước đã gặp phải cho khu vực tư nhân. Mục tiêu là xác định những việc đơn vị tư nhân có thể thực hiện được để giao cho họ những việc mà đơn vị nhà nước biết là khả thi trong điều kiện giá dịch vụ và thời hạn thực tế. Đơn vị tư nhân có trách nhiệm cung cấp dịch vụ có chất lượng trong một khuôn khổ minh bạch và hiệu quả. Đơn vị nhà nước chịu trách nhiệm giải quyết các khó khăn về mặt thể chế, hành chính nằm ngoài khả năng của đơn vị tư nhân. Theo cách làm này, thì việc khảo sát nghiên cứu trước khi thực hiện dự án là tối cần thiết : mục tiêu của khảo sát là xác định rõ các vấn đề đặt ra. Sức mạnh của quan hệ đối tác công - tư nằm ở chỗ nghiên cứu, thiết kế ban đầu, điều kiện sách khả thi và việc theo dõi sát sao quá trình thực hiện. Nếu chỉ trông đợi vào giai đoạn thực hiện hợp đồng, thì mọi việc sẽ không rõ ràng và sẽ gây ra nhiều hậu quả. Khối lượng công việc cần thực hiện, chi phí thi công và việc đầu tư tài chính bằng mọi giá sẽ không phải là những yếu tố đảm bảo tính thành công và hiệu quả công việc. 110 Với số tiền sẵn có, dựa trên giá nước hiện nay, ta có thể lập kế hoạch hành động thứ nhất để giải quyết một số khó khăn. Kế hoạch hành động thứ hai nhiều tham vọng hơn có thể được xây dựng để tìm kiếm các nguồn tài chính mới (ngân sách, hỗ trợ qua lại giữa các ngành…) trong mối quan hệ chặt chẽ với chính quyền. Dường như các khó khăn nằm ở khâu chuẩn bị dự án và khuôn khổ chiến lược nhiều hơn là ở khâu thực hiện dự án và chuyển giao cho khu vực tư nhân. Những thay đổi hiện nay nằm bên ngoài hoặc lân cận với lĩnh vực cấp nước và xử lý nước thải, trong khi đó ta vẫn còn có thể cải thiện nhiều việc trong bản thân của hai ngành này. Cuối cùng, trong lĩnh vực cấp nước, xử lý nước thải và nhà ở, tình hình hiện nay ở Việt Nam không có gì đặc biệt. Thay vì nhìn về quá khứ, ta nên tăng cường khả năng kiểm soát tình hình thông qua việc dự báo cho tương lai và tổ chức thể chế. Về mặt này, cần xác định một cơ quan điều phối hoạt động của tất cả các bên có liên quan trong các lĩnh vực này. III. Khuyến nghị thực hiện 1. Thành lập Ban điều phối hoạt động của các sở, ban ngành Mục tiêu của ban này là tiên liệu và chuẩn bị hoạt động của các đơn vị nhằm đáp ứng các yêu cầu về kinh tế và xã hội. Trước hết, ba mảng quan trọng cần được chuẩn bị dựa trên trình độ chuyên môn của các sở, ban ngành hiện nay ở TPHCM: - Làm rõ các khái niệm, đặc biệt là khái niệm khu vực công và khu vực tư nhân; - Xem xét lại, cập nhật và tối ưu hóa các yêu cầu, quy định về dịch vụ; - Triển khai công tác theo dõi các dự án để dự báo nhu cầu của các ngành; Đây không phải là Ban về quy hoạch mà là cơ quan chuyên về các dịch vụ công đảm bảo sự phối hợp, chia sẻ giữa các ngành như thành phố mong muốn vì lợi ích của nhà đầu tư và người dân. Cần xác định rõ khuôn khổ của các quy định, mục đích sử dụng đất. Các quy chuẩn đã được ban hành, nên cần tạo khuôn khổ hành động để đạt được các quy chuẩn đó. Thành phố phải là nhà tổ chức đối ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Par exemple, une rémunération de l’investisseur privé fondée sur la réduction des volumes d’eau perdus est prise en tenaille entre un prix de l’eau bas et des taux d’intérêt élevés. A côté de la réflexion sur les rapports régulés à rechercher avec le partenaire privé, il convient de travailler préalablement sur deux registres : - mettre de l’ordre dans les relations entre l’entreprise–mère SAWACO et ses filiales autonomes (contrat de performance ?) - de même, il ne s’agit pas de faire supporter à l’investisseur privé la totalité des difficultés. Le recours au privé ne peut consister à exporter vers celui-ci les difficultés qui affectent un service. Il s’agit plutôt de résoudre préalablement les principales difficultés qui ressortissent au secteur public, le secteur privé devant plutôt intervenir sur des segments techniques et commerciaux ou sur des savoir-faire spécifiques en partenariat avec les autorités. Pour rendre plus attractif avant et plus efficace ensuite, le recours au privé doit s’effectuer dans la plus grande transparence réciproque : l’état des services à céder ou concéder (valeurs des immobilisations, état des réseaux, difficultés de tous ordres) autant que les compétences et les références avérées du partenaire privé. Toute dissimulation de l’une ou de l’autre des parties déséquilibre le contrat et en affecte les performances futures. A cet égard, le contrat ne doit pas consister à exporter les difficultés connues par le responsable public vers un opérateur privé. L’objectif pourrait être d’identifier ce que l’entreprise privée peut régler afin de lui confier ce que le donneur d’ordre public sait réalisable dans des conditions de prix et de délais raisonnables. A charge pour le privé de fournir un service de qualité dans un cadre de régulation transparent et efficace. A charge pour l’entreprise publique d’avancer dans la résolution des difficultés de type institutionnel qui sont hors de portée des intervenants privés. Dans ce sens, une étude-diagnostic préalable paraît indispensable : elle devrait se fixer comme objectif de bien poser les problèmes. La force du PPP est dans sa conception préalable, dans son cahier des charges réaliste et dans son suivi. Tout attendre de l’exécution du contrat constitue une ambiguïté lourde de conséquences. L’importance, le volume du coût des travaux et le financement des investissements à tout prix ne sont pas le gage d’une efficacité assurée. Une proposition pourrait consister à résoudre, avec l’argent disponible fondé sur le prix actuel de l’eau, un certain nombre de difficultés à travers un premier plan d’action. Un second plan d’action plus ambitieux pourra être élaboré avec la recherche de nouvelles ressources (à identifier : subvention publique, financement croisé, etc.) en relation étroite avec les autorités. Les difficultés semblent se situer plutôt en amont, dans la conception et le cadrage stratégique, que dans l’aval, l’opérationnel et le transfert vers le privé. Les transformations du secteur semblent avoir porté sur l’extérieur ou la périphérie du secteur EPA alors que des améliorations structurelles restent possibles. Enfin, en matière de service en eau et assainissement mais aussi d’habitat, la situation du Vietnam n’a rien d’exceptionnel. Il convient de passer du constat rétrospectif à une maîtrise renforcée par l’anticipation et la projection institutionnelle. A cet égard, il serait sans doute nécessaire d’identifier l’institution régulatrice qui coordonne et synchronise les différentes parties prenantes. III. Recommandations opérationnelles 1. Mettre en place une Direction de coordination des services publics Celle-ci aurait pour objet d’anticiper et de préparer la mutation des services qui a lieu aujourd’hui afin de répondre aux objectifs tant économiques que sociaux. En amont, trois volets importants et nécessaires doivent être abordés en s’appuyant sur les connaissances et compétences des services techniques déjà en place à HCMV : - préciser les concepts règlementaires et en particulier les notions de domaine public et de domaine privé ; - revoir, mettre à jour, optimiser les cahiers des charges des services, les règlements de services ; - mettre en place un observatoire opérationnel pour anticiper les besoins des services. Il ne s’agirait pas d’une Direction de la planification. Il s’agirait d’une institution vouée aux services publics qui travaillerait à donner à la mutation des services publics la direction que souhaite la ville pour le bien tant des investisseurs que des habitants. 111 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI với tất cả các dịch vụ (cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải, điện, chiếu sáng, đường giao thông, giao thông, nhà ở, thương mại…). Cần có sự điều phối dựa trên tầm nhìn tổng thể. Việc hình thành một cơ quan chuyên về công tác điều phối sẽ giúp xem xét toàn bộ các vấn đề đặt ra trong khóa học và đề ra các hành động cụ thể để vượt qua khó khăn. Một trong những yếu tố cản trở ở TPHCM là giá nước. Việc vận hành khai thác mạng lưới cấp nước phải cần một khoản kinh phí. Hiện nay, giá nước có đủ để trang trải chi phí này không? Nếu không, lấy nguồn nào để bù? 2. Vấn đề tài chính Việc xác định kinh phí cần thiết để duy trì dịch vụ công có chất lượng tốt là điều hết sức quan trọng. Nếu giá nước đã cố định, thì cần xác định khoản bổ sung để đủ trang trải chi phí khai thác và dự kiến trong tương lai giá nước sẽ tăng lên để có thể đủ trang trải cho các chi phí. Việc xác định rõ kinh phí đầu tư xây dựng và chi phí vận hành dịch vụ là rất cần thiết. Trước tiên cần xác định: Điều này cho phép đơn vị khai thác biết trước chiều hướng tăng giá dịch vụ và đảm bảo chất lượng dịch vụ. Mục tiêu là xác định các nền tảng tốt và thực hiện dần dần việc san sẻ giữa các ngành. - Kinh phí cho đầu tư, - Chi phí vận hành khai thác. Các vấn đề mà Việt Nam gặp phải cũng chính là những vấn đề ở Maroc. Một số vấn đề đã được giải quyết, một số khác đang được nghiên cứu để tìm giải pháp mới. Không nên nhập khẩu nguyên mẫu phương pháp áp dụng ở nước ngoài. Tuy vậy, cần nghiên cứu các giải pháp đã được triển khai có hiệu quả ở nước ngoài và tìm cách điều chỉnh cho nó thích nghi với điều kiện ở thành phố khác. Việc trao đổi kinh nghiệm này mang tính hai chiều giữa Việt Nam và Maroc. Chứng tỏ các lợi ích về kinh tế của dịch vụ công hiện đại và hiệu quả: - Lợi ích cho nhà đầu tư, - Lợi ích cho người dân. 3. Xem xét lại việc sử dụng vốn ODA. Chi phí vận hành, khai thác dịch vụ công phải do người sử dụng chi trả (người dân và doanh nghiệp) Cần tập trung nguồn vốn ODA cho các ngành không có tính kinh tế. Vay nợ là để giúp đỡ người nghèo nhất. Kinh nghiệm ở Maroc là có kết hợp các ngành với nhau: cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải, cấp điện. Từ đó, sẽ có sự bù chéo giữa ngành có lãi (ngành điện) với ngành không có lãi (cấp thoát nước và xử lý nước thải). Để đảm bảo tính bền vững về mặt tài chính, thì nguồn thu từ người sử dụng dịch vụ phải đủ để trang trải chi phí vận hành, chứ không nên dựa vào vốn tài trợ. Việc sử dụng đúng nơi, đúng mục đích nguồn vốn ODA sẽ giúp tránh được đưa vốn này vào những ngành có tính kinh tế. 4. Chủ đầu tư các dự án đô thị kể cả nhà nước lẫn tư nhân đều phải đóng góp vào nỗ lực chung Các chủ đầu tư (nhà nước và tư nhân) phải đóng góp cho cơ sở hạ tầng. Họ nhận thức được lợi ích của các dịch vụ công có chất lượng tốt và sẵn sàng đầu tư để đạt được mục tiêu này. Dĩ nhiên, nhà đầu tư mong muốn chi càng ít càng tốt. Do đó, cần có sự đối thoại mang tính xây dựng giữa nhà nước và chủ đầu tư. ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT Il s’agit par exemple de préciser les cadres réglementaires. Même si la propriété des terres est collective, son usage peut être public et privé. Une définition des usages doit être faite. Des normes sont en place, il faut aller plus loin, mettre en place des cadres pour atteindre ces normes. La ville doit être un organisateur de l’ensemble des services (eau, assainissement, électricité, éclairage, voirie, transports, logements, commerces…). Une coordination à partir d’une vision globale de ces services doit s’instaurer. Avoir une organisation dédiée à une telle réflexion permettrait de mettre à plat les problématiques abordées dans cet atelier et de proposer des actions concrètes pour surmonter les difficultés. L’objectif est de définir de bonnes bases et d’opérer la mutation en douceur, malgré un rythme accéléré. 2. Faire le point sur les notions de financements en termes d’investissement Faire le point sur les notions de financements et de coût du service public est indispensable. Il s’agit tout d’abord d’en définir : - le financement en termes d’investissements, - et le coût d’exploitation. Les problèmes (facteurs bloquants) rencontrés au Vietnam sont les mêmes que ceux rencontrés au Maroc. Certains ont pu être dépassés, pour d’autres les solutions restent en cours d’élaboration et d’innovation. Il ne s’agit pas d’importer une méthodologie. En revanche, il est intéressant de faire le point sur les actions qui ont bien fonctionné ailleurs et d’essayer de les utiliser dans une autre ville. Ce type d’échanges peut avoir lieu du Maroc vers le Vietnam mais également du Vietnam vers le Maroc. Il s’agit également de mettre en perspective, montrer les leviers économiques que procure un service public moderne et efficace : - intérêt pour les investisseurs, - intérêt pour la population. 3. Revoir l’utilisation de l’aide publique au développement. L’exploitation du service public doit être assurée par les usagers (habitants et industries) Il s’agit de concentrer cette aide sur les secteurs qui 112 ne sont pas porteurs économiquement. La dette doit être consacrée à aider les plus démunis. Un des facteurs qui bloque la réflexion à HCMV est le prix de l’eau. Aujourd’hui, cette exploitation est assurée par un coût. Est-ce que ce coût est couvert ? Si non, comment compléter la couverture de ce coût ? Définir le coût d’investissement nécessaire pour maintenir un service public de qualité est primordial. Si le prix de l’eau est fixe, il s’agit d’établir un coût d’investissement plancher qui permettra de voir clairement quel complément est nécessaire et d’envisager comment, éventuellement à terme le prix de l’eau pourra converger vers ce coût. Cela permettrait à un investisseur exploitant le service public de savoir d’avance vers quel coût il s’oriente et d’être sûr qu’il bénéficiera d’un service public de qualité. Une expérience qui a bien fonctionné au Maroc est celle du financement des services publics qui associe la distribution de l’eau, l’assainissement et la distribution de l’électricité, permettant une péréquation des bénéfices de l’électricité vers l’eau et l’assainissement. Pour que les investissements et financements soient pérennes, l’exploitation du service doit être assurée par les usagers et non par des subventions. Avoir une utilisation précise des aides au développement permet d’éviter d’injecter cette aide dans des domaines qui peuvent trouver d’autres formes de péréquation. 4. Les lotisseurs publics et privés doivent participer à l’effort global d’investissement Concernant le financement des investissements, tous les lotisseurs (privés ou publics) doivent y participer même s’il s’agit d’une station située à l’extérieur de la ville car ce sont les lotisseurs situés dans ville qui vont en profiter. Ils doivent donc eux aussi participer à l’investissement pour des projets situés à l’extérieur de la ville. Les lotisseurs, tout comme les investisseurs immobiliers sont conscients de l’intérêt d’un service public de qualité et se montrent prêts à investir pour atteindre cet objectif. Mais bien évidemment, le lotisseur ou l’investisseur souhaite dépenser le moins possible et oblige le service public à choisir le projet le plus pertinent. C’est un dialogue constructif entre les lotisseurs et la force publique. 113 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT 5. Xác định ưu tiên và phát huy giá trị các khoản đầu tư của Thành phố đòi hỏi phải triển khai các công cụ điều hành. 5. Donner la priorité et valoriser les investissements Sự phát triển năng động của TPHCM đòi hỏi phải có phân kỳ theo giai đoạn và thường xuyên xác định ưu tiên để tránh chồng chéo trong đầu tư. Ngoài các yêu cầu về dự án (nghiên cứu - đầu tư xây dựng - khai thác), cần nghiên cứu thêm các dịch vụ dành cho người nghèo và nghiên cứu giải quyết các cơ chế gây ra các yếu tố cản trở. La dynamique forte d’HCMV oblige à faire des points d’étapes et à mettre en place une redéfinition régulière des priorités pour éviter la confusion des investissements. Nhiều chủ thể có thể cùng tham gia vào một mục tiêu. Việc phân tích liên tục các dự án do thành phố đang triển khai thực hiện là rất cần thiết. Đây là công cụ điều phối giúp tránh tình trạng chồng chéo giữa các đơn vị. Cette réflexion sur les investissements permettrait de mettre en perspective les avantages que ces investissements publics vont amener tant pour la population que pour les investisseurs. Il faut valoriser les investissements déjà réalisés. Aujourd’hui, il semble que les investissements réalisés ne soient pas reconnus. Il faut montrer tous les efforts qui sont faits en termes d’investissements pour le bien de la population et de l’activité économique. Điều này sẽ cho thấy rõ các khoản đầu tư của nhà nước mang lại lợi ích như thế nào cho người dân và nhà đầu tư. Cần phát huy giá trị các công trình đã thực hiện. 6. Triển khai các công cụ điều hành Tốc độ phát triển đô thị càng cao, thì yêu cầu về công tác quản lý, điều hành càng cấp bách. Sự phát triển năng động của TPHCM và nhu cầu lớn Không nên tìm kiếm thủ phạm! Quy trình quá phức tạp. Giải pháp nằm ở chỗ giao thoa giữa các ngành. Nếu quy trình phối hợp rõ ràng và được các bên thống nhất, thì có thể giảm đáng kể các chi phí và xung đột giữa các ngành. 6. Mettre en place des outils de gouvernance La dynamique d’HCMV et les besoins énormes qui en découlent créent la nécessite de mettre en place des outils de gouvernance. Au delà du travail classique de l’opérateur (projet – études – travaux – exploitation) s’ajoute une réflexion sur le service aux plus démunis et sur les mécanismes qui peuvent générer des blocages. Plusieurs intervenants peuvent s’agglomérer autour d’un même objectif. Une analyse continue et parallèle de tous les projets menés par la ville est nécessaire. Il s’agirait d’un outil de coordination qui éviterait certains affrontements et chevauchements. Ne surtout pas chercher des coupables ! Le processus est trop complexe. La solution se trouve dans les niches d’intersections entre tous les services. De nombreux coûts et frictions entre les secteurs peuvent être évités si la démarche est claire et partagée. Le besoin de gouvernance est d’autant plus urgent que le développement de la ville se fait à un rythme très rapide. 114 115 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI DANH SÁCH CÁC KHÓA TẬP HUẤN ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT LISTE DES ATELIERS PASSÉS 37. Cân nhắc những rủi ro liên quan đến nước. Tiến tới quy hoạch các yếu tố có tính hệ thống: 12/12 16/12/2011 - Stéphane Caviglia, phụ trách công tác Đô thị, Métropole Savoie 37. Prise en compte des risques liés à l’eau. Vers une planification d’éléments systémiques : 12/12 16/12/2011 - Stéphane Caviglia (Chargé de mission urbanisme, Métropole Savoie) 36. Đối tác công-tư: 05/12 – 09/12/2011 - Thierry GOUIN (CERTU, Chuyên gia của vùng Rhône-Alpes), Jan G. Janssens (Chuyên gia của AFD), ĐẶNG Xuân Quang (Tổ trưởng tổ công tác PPP Task Force, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam) 36. Partenariats Public-Privé : 05/12 - 09/12/2011, co-organisé par le PADDI, l’AFD et le CEFEB/AFD - Thierry Gouin, Expert en mobilité urbaine (CERTU) et Jan Janssens, expert indépendant (ancien expert de la Banque Mondiale sur les PPP eau et assainissement) 35. An toàn giao thông: thách thức và giải pháp: 31/10 - 04/11/2011 - Hubert Trève (Kỹ sư, chuyên gia về An toàn giao thông, CERTU) 35. Sécurité routière : enjeux et solutions : 31/10 - 04/11/2011 - Hubert Trève (Ingénieur-expert en sécurité des déplacements, CERTU) 34. Kiến trúc xanh: ý tưởng, thiết kế và thực hành: 30/05 - 03/06/2011 - Thierry Roche (Kiến trúc sư, nhà Quy hoạch, Quản lý Atelier Thierry Roche) 34. Architecture verte : concepts et pratiques : 30/05 - 03/06/2011 - Thierry Roche (Architecte DPLG, gérant de l’Atelier Thierry Roche) 33. Hỗ trợ chủ đầu tư nhà nước về công trình xanh, xây dựng bền vững ứng phó với biến đổi khí hậu: 09/05 - 13/05/2011 - Cécile Wicky (Trưởng dự án, tham chiếu QEB, Cộng đồng đô thị Lyon) 33. Appui à la maîtrise d’ouvrage publique dans le cadre de bâtiments verts et constructions durables face au changement climatique : 09/05 - 12/05/2011 - Cécile Wicky (Chef de projet/référent QEB, Ville de Lyon) 32. Quy hoạch và quản lý không gian xanh, chính sách bảo tồn và phát triển cây xanh: 18/04 - 22/04/2011 - Frédéric Ségur (Kỹ sư phụ trách phòng Cây xanh và Cảnh quan, Cộng đồng đô thị Lyon) 31. Điều hành và đầu tư tài chính các dịch vụ đô thị cấp thoát nước và xử lý nước thải: 06/12 - 10/12/2010 - Claude de Miras (Viện Nghiên cứu vì sự phát triển IRD), Christophe Cluzeau (Giám đốc dự án INDH-INMAE), Abderrahmane Ifrassen (Tổng Giám đốc IDMAJ SAKAN) 30. Thực hiện quy hoạch đô thị tại TPHCM: 14/06 - 22/06/2010 - Patrice Berger (Cơ quan Quy hoạch đô thị Cộng đồng đô thị Lyon AUGL) 29. Sở hữu chung riêng trong quản lý chung cư và các phương thức tài chính dành cho nhà ở: 28/06 02/07 - Jean-Charles Castel (CERTU) 28. Cơ sở dữ liệu và hệ thống theo dõi, giám sát đất đai và bất động sản: 12/04 - 16/04/2010 - Robert Wacheux (Sở Đất đai Cộng đồng đô thị Lyon) 27. Cải tạo chỉnh trang đô thị, bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư: 22/03 - 27/03/2010 - Pascale Bonnard (Trưởng Ban Lập trình và Quản lý Cơ chế Nhà ở – Ban Giám đốc Nhà ở và Đoàn kết Phát triển đô thị – Cộng đồng đô thị Lyon) 26. Cải tạo chỉnh trang đô thị xung quanh các trục đường mới: 25/01 - 29/01/2010 - Jean-Charles Castel (CERTU) 25. Ứng dụng GIS trong quản lý đô thị: 18/01 - 23/01/2010 - Anne Lesvignes (Ban Giám đốc Quy hoạch đô thị của Cộng đồng đô thị Lyon) 24. Bảo tồn di sản kiến trúc đô thị và triển vọng chiến lược quản lý di sản trong khu trung tâm lịch sử của TPHCM: 10/01 - 16/01/2010 - Bruno Delas (Sở Văn hóa và Di sản Thành phố Lyon) 23. Cơ quan tổ chức giao thông và các mô hình quản lý doanh nghiệp khai thác: 14/12 - 18/12/2009 Maurice Lambert (nguyên Giám đốc Văn phòng Chủ tịch Công đoàn Giao thông công cộng Grenoble) 22. Mô hình công nghệ và xây dựng công trình xanh: 07/12 - 11/12/2009 - Françoise Cadiou (Ủy ban Năng lượng Nguyên tử Quốc gia Pháp), Melissa Merryweather (Hội đồng Công trình xanh Việt Nam VGBC). 21. Các chính sách và cơ chế để tạo quỹ đất sạch: 02/03 - 06/03/2009 - Robert Wacheux (Sở Đất đai Cộng đồng đô thị Lyon) 116 32. Aménagement et gestion publique des espaces verts, politique de protection et de développement de l’arbre : 18/04 - 22/04/2011 - Frédéric Ségur (Ingénieur responsable du service Arbres et Paysage à la Communauté Urbaine de Lyon) 31. Inclusion urbaine, fabrication de la ville et réseaux. Gouvernance et financement des services en eau et assainissement : 06/12 - 10/12/2010 - Claude de Miras (IRD), Christophe Cluzeau (Directeur Projet INDH-INMAE) et Abderrahmane Ifrassen (Directeur Général IDMAJ SAKAN) 30. Mise en œuvre de la planification urbaine à HCMV : 14/06 - 22/06/2010 - Patrice Berger (Agence d’Urbanisme du Grand Lyon) 29. Copropriété et propriété privée dans le logement : 28/06 – 02/07/2010 - Jean-Charles Castel (CERTU) 28. Observatoire foncier et immobilier : 12/04 -16/04/2010 - Robert Wacheux (Service foncier du Grand Lyon) 27. Réaménagement urbain : expropriation, relogement et indemnisation : 22/03 - 27/03/2010 - Pascale Bonnard (Directeur Mission GPV - Grand Lyon) 26. Réaménagement urbain autour des nouveaux axes : 25/01 - 29/01/2010 - Jean-Charles Castel (CERTU) 25. Application SIG dans la gestion urbaine : 18/01 - 23/01/2010 - Anne Lesvignes (Direction de l’Urbanisme du Grand Lyon) 24. Protection du patrimoine architectural urbain et perspective d’une stratégie de gestion du patrimoine à HCMV : 10/01 - 16/01/2010 - Bruno Delas (Service de la Culture et du Patrimoine, Ville de Lyon) 23. Autorités organisatrices des transports et modèles de gestion des compagnies d’exploitation : 14/12 - 18/12/2009 - Maurice Lambert (expert indépendant, ex. Directeur du Cabinet du Président du Syndicat des Transports en Commun de Grenoble) 22. Démonstrateurs technologiques et bâtiments verts : 07/12 - 11/12/2009 - Françoise Cadiou (CEA), Melissa Merryweather (VGBC) 21. Outils et dispositifs d’une politique foncière : 02/03 - 06/03/2009 - Robert Wacheux (Grand Lyon) 117 KHÓA TẬP HUẤN ĐIỀU HÀNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DỊCH VỤ ĐÔ THỊ CẤP NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI 20. Phát triển nhà ở xã hội: 09/02 - 13/02/2009 - P. Peillon (Hiệp hội các Tổ chức Nhà ở Xã hội dành cho người thu nhập thấp) 19. Mối quan hệ giữa Quy hoạch xây dựng đô thị và Quy hoạch giao thông đô thị: 17/11 - 21/11/2008 Philippe Bossuet (SYTRAL) và Patrice Berger (Cơ quan Quy hoạch đô thị Cộng đồng đô thị Lyon AUGL) 18. Quy hoạch giao thông tại các nước đang phát triển: 10/11 - 11/11/2008 - Huzayyin (Giáo sư Trường Đại học Cai-rô Ai Cập) 17. Cải tạo chỉnh trang đô thị: 16/06 - 20/06/2008 - Laurent Bechaud (Giám đốc Nhóm vì Lợi ích Cộng đồng trong Dự án quy mô lớn của Thành phố Saint-Etienne) ATELIER INCLUSION URBAINE, FABRICATION DE LA VILLE ET RESEAUX GOUVERNANCE ET FINANCEMENT DES SERVICES URBAINS EN EAU ET ASSAINISSEMENT 20. Développement du logement social : 09/02 - 13/02/2009 - P. Peillon (Union des Organismes HLM) 19. Planification urbaine et transports publics : 17/11 - 21/11/2008 - Philippe Bossuet (SYTRAL) et Patrice Berger (AUGL) 18. Planification des transports dans les pays en développement : 10/11 - 11/11/2008 - Huzayyin (Université du Caire) 17. Renouvellement urbain : 16/06 - 20/06/2008 - Laurent Bechaud (GIP-GPV de Saint-Etienne) 16. Gestion des déchets : règlements et financement : 09/06 - 13/06/2008 - Christelle Neciolli (Grand Lyon) 16. Quản lý chất thải rắn: quy chế và thu phí: 09/06 - 13/06/2008 - C. Neciolli (Cộng đồng đô thị Lyon) 15. Gestion d’une ligne de bus : 26/05 - 30/05/2008 - H. Van Eibergen (Grenoble-Alpes Métropole) 15. Quản lý một tuyến xe buýt: 26/05 - 30/05/2008 - H. Van Eibergen (Grenoble-Alpes Métropole) 14. Fonctionnement et exploitation des parkings : 14/04 - 18/04/2008 - Michel Golly (Société ASCO consulting) 14. Vận hành, khai thác, quản lý bãi đậu xe: 14/04 - 18/04/2008 - Michel Golly (Công ty Tư vấn ASCO) 13. Quản lý và xử lý chất thải: 07/05 - 12/05/2007 - C. Neciolli (Cộng đồng đô thị Lyon) 12. Thiết kế đô thị: 26/03 - 31/03/2007 - M. Perret-Blois (Văn phòng Tư vấn kiến trúc & quy hoạch đô thị Patrick Chavanes) 11. Xã hội hóa dịch vụ đô thị và cơ sở hạ tầng: 05/02 - 12/02/2007 - E. Baye (Công ty ASCONIT) 10. Quy hoạch và quản lý công trình ngầm: 29/01 - 05/02/2007 - A. Chaussinand (Thành phố Saint-Etienne) 9. Chính sách nhà ở và quản lý nhà ở xã hội: 15/01 - 22/01/2007 - Jean-François Rajon (Môi trường sống và Nhân văn) 13. Gestion et traitement des déchets : 07/05 - 12 /05/2007 - Christelle Neciolli (Grand Lyon) 12. Design urbain : 26/03 - 31 /03/2007 - M. Perret-Blois (Agence Patrick Chavanes) 11. Privatisation des infrastructures et des services urbains : 05/02 - 12 /02/2007 - E. Baye (Société ASCONIT) 10. Planification et gestion des ouvrages souterrains : 29/01 - 05/02/2007 - A. Chaussinand (Ville de SaintEtienne) 9. Logement social : 15/01 - 22 /01/2007 - Jean-François Rajon (Habitat & Humanisme) 8. Triển khai thực hiện quy hoạch: 20/11 - 27 /11/2006 - C. Marquand (SED de Haute-Savoie) 8. Passage d’un plan d’aménagement à la réalisation : 20/11 - 27 /11/2006 - C. Marquand (SED de HauteSavoie) 7. Quy hoạch và quản lý đất đai: 16/10 - 20 /10/2006 - Jean-Charles Castel (CERTU) 7. Planification et gestion des ressources foncières : 16/10 - 20 /10/2006 - Jean-Charles Castel (CERTU) 6. Quản lý nhà ở xã hội: 03/04 - 12/04/2006 - J-F Rajon (Môi trường sống và Nhân văn) 6. Gestion du logement social : 03/04 - 12 /04/2006 - Jean-François Rajon (Habitat § Humanisme) 5. Gắn kết các dự án cải tạo chỉnh trang đô thị: 22/03 - 31/03/2006 - C. Marquand (SED de Haute-Savoie) 5. Montage des projets d’aménagement : 22/03 - 31/03/2006 - C. Marquand (SED de Haute-Savoie) 4. Chính sách quản lý tại các thành phố: 10/03 - 21/03/2006 - Jean-Charles Castel (Trung tâm Nghiên cứu các Mạng lưới Giao thông, Quy hoạch đô thị và các Công trình công cộng CERTU) 4. Politique et gestion des villes : 10/03 - 21 /03/2006 - Jean-Charles Castel (CERTU) 3. Cải tạo chỉnh trang đô thị: 28/02 - 09/03/2006 - Laurent Bechaud (Giám đốc Nhóm vì Lợi ích Cộng đồng trong Dự án quy mô lớn của Thành phố Saint-Etienne) 2. Xã hội học đô thị: 16/02 - 27/02/2006 - P. Chaudoir (Viện Quy hoạch đô thị Lyon IUL) 3. Renouvellement urbain : 28/02 - 09/03/2006 - Laurent Bechaud (GIP-GPV de Saint-Etienne) 2. Sociologie urbaine : 16/02 - 27/02/2006 - P. Chaudoir (IUL) 1. Gestion des infrastructures et services urbains : 06/02 - 15/02/2006 - E. Baye (Société ASCONIT) 1. Quản lý cơ sở hạ tầng và dịch vụ đô thị: 06/02 - 15/02/2006 - E. Baye (Công ty ASCONIT) 118 119 Tr u n g t â m D ự b á o v à N g h i ê n c ứ u Đ ô t h ị Centre de Prospective et d’Études Urbaines Quý vị có thể tải các tài liệu tổng hợp của các khóa tập huấn và tham khảo các thông tin trên trang web của PADDI http://www.paddi.vn Le téléchargement des livrets ainsi que les informations sont disponibles sur le site internet du PADDI http://www.paddi.vn 216 Nguyễn Đình Chiểu, Q.3, Thành phố Hồ Chí Minh Te l / f a x : + 8 4 ( 0 ) 8 3 9 3 0 5 4 7 7 – E m a i l : p a d d i @ h c m . f p t . v n We b s i t e : w w w. p a d d i . v n Region SAØI GOØN TP HOÀ CHÍ MINH